Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình phát triển. Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Vì vậy, xây dựng và phát triển văn hóa, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Từ mục tiêu cao cả đó dù đất nước chưa giành được độc lập dân tộc nhưng năm 1943 Đảng ta đã chủ trương xây dựng và ban hành Đề cương văn hóa Việt Nam, trên nền tảng tinh thần đó Đảng tiếp tục đã ban hành Nghị quyết Hội nghị trung ương năm khóa VIII (1998) Hội nghị trung ương 9 khóa XI ban hành Nghị quyết số 33 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Sau khi nghị quyết được ban hành đã được các cấp ủy đảng chính quyền Lạng Sơn triển khai thực hiện các nhiệm vụ và đã đạt được nhiều kết quả:
Thứ nhất, trong xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Thực hiện nội dung này tỉnh tập trung nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, coi trọng cả “dạy người, dạy chữ, dậy nghề”, gắn với xây dựng, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân, giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hóa truyền thống cho học sinh, sinh viên các cấp như: tổ chức cho học sinh, sinh viên thăm quan bảo tàng, học tập ngoại khóa về lịch sử địa phương, đất nước, Đảng, Bác Hồ qua đó đã góp phần giáo dục lòng yêu nước, tự hào về truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc, củng cố niềm tin, trách nhiệm của thế hệ trẻ với tương lai của đất nước. Qua quá trình thực hiện đại bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa.
Cùng với việc xây dựng con người mới việc đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người được đẩy mạnh; nghiêm túc thực hiện chỉ thị số 46-CT/TW, ngày 27/7/2010 của Ban Bí thư về “Chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội” thông qua thanh tra, kiểm tra đối với gần 590 cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa, phát hiện 80 trường hợp vi phạm, qua đó đã kịp thời truy quét, phát hiện và ngăn chặn việc lưu hành, phát tán ấn phẩm văn hóa đồi trụy, độc hại, tiêu huy hàng vạn ấn phẩm độc hại. Qua đó góp phần xây dựng nét mới trong quá trình chỉ đạo xây dựng văn hóa con người Việt Nam trên địa bàn tỉnh.
Thứ hai, trong xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.
Việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh luôn được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo, các phong trào văn hóa, thể thao quần chúng được phát triển rộng khắp. Đến nay trên địa bàn toàn tỉnh có 24,5% số người dân thường xuyên tập luyện thể dục thể thao tăng 0,5% so với năm 2015; 14,2% hộ gia đình tập luyện TDTT thường xuyên; 225 câu lạc bộ thể thao cơ sở có Quyết định thành lập, có trên 800 câu lạc bộ, đội văn nghệ quần chúng hằng năm tổ chức hoạt động thường xuyên thu hút hội viên tham gia. Gia đình là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người. Năm 2014 có 66,7% hộ được công nhận gia đình văn hóa đến năm 2018 có 75,1% tăng 8,4% so với năm 2014. Hằng năm thu hút trên 60% thôn khối phố được công nhận đạt văn hóa đạt 53,2% tăng 11,9% so với 2014.
Thứ ba, xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế.
Xây dựng văn hóa trong chính trị trọng tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên, công chức, viên chức từ 2014 – 2019 tỉnh cử 209 cán bộ đi đào tạo trình độ sau đại học theo diện được hưởng chế độ khuyến khích của tỉnh và tổ chức 03 lớp bồi dưỡng kiến thức văn hóa công sở, đạo đức công vụ cho cán bộ, công chức viên chức ở các cơ quan, đơn vị. Việc xây dựng văn hóa trong chính trị được các cấp ủy đảng, các cơ quan, ban, ngành cụ thể hóa thông qua nội quy, quy chế, các quy định chuẩn mực về đạo đức, tác phong, lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên, công chức; Xây dựng văn hóa trong trong kinh tế được các cấp các ngành đẩy mạnh thực hiện như cải thiện môi trường đầu tư, cải cách hành chính, tạo điều kiện tốt nhất cho doanh nhân, doanh nghiệp đầu tư kinh tế thông qua Hội nghị Xúc tiến đầu tư năm 2019 do Ủy ban Nhân dân tỉnh Lạng Sơn tổ chức. UBND tỉnh dự kiến sẽ trao quyết định chủ trương đầu tư, quyết định lựa chọn nhà đầu tư, quyết định trúng đấu giá, cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và ký biên bản ghi nhớ trên 100 dự án với tổng vốn khoảng 80.000 tỷ đồng.
Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế đã góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên trên địa bàn tỉnh.
Thứ tư, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa tỉnh đã huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, dân tộc. Với việc thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TU, ngày 31/8/2016 “về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa giai đoạn 2016 – 2020 và những năm tiếp” đã đạt được nhiều kết quả: lập hồ sơ khoa học nghiên cứu sưu tầm, phục dựng bảo tồn, tư liệu hóa các loại hình di sản văn hóa phi vật thể: 21 hồ sơ đề nghị xét tặng “nghệ nhân ưu tú”, 2 hồ sơ xét tặng “nghệ sĩ ưu tú”, 2 hồ sơ đề nghị xét tặng “nghệ sĩ nhân dân”. Phối hợp với Viện Âm nhạc và các tỉnh xây dựng bộ hồ sơ di sản “Then Tày, Nùng, Thái Việt Nam” trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại; di sản văn hóa vật thể đến nay đã thống kê được 1.117 điểm di tích và cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo. Lập hồ sơ xếp hạng 01 khu di tích từ cấp quốc gia lên quốc gia đặc biệt (khu di tích khởi nghĩa Bắc Sơn). Lập hồ sơ khoa học thêm 08 di tích nâng tổng số di tích được xếp hạng từ 118 lên 126 di tích gồm 1 di tích quốc gia đặc biệt; 27 di tích quốc gia, 98 di tích cấp tỉnh.
Phát triển đi đôi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; khắc phục tình trạng lạm dụng tiếng nước ngoài. Giữ gìn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số, nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền thống; Cùng với đó công tác đào tạo, bồi dưỡng, truyền dạy, phổ biến các loại hình dân ca, dân vũ, tiếng nói, chữ viết được phát triển thông qua việc tổ chức cac lớp truyền dậy, phổ biến dân ca trên địa bàn tỉnh.
Thứ năm, phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa
Thực hiện kế hoạch số 60/KH-UBND, ngày 05/4/2017 của UBND tỉnh về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030. Xây dựng các chủ trương, chính sách về phát triển du lịch tạo điều kiện khuyên khích phát triển các loại hình du lịch văn hóa, đặc biệt là du lịch di sản, du lịch tâm linh, du lịch tham quan di tích lịch sử kết hợp với sinh thái nghỉ dưỡng. Trao đổi hợp tác với Quảng Tây, Trung Quốc đẩy mạnh hợp tác phát triển du lịch biên giới theo Quyết định số 1594/QĐ-UBND, ngày 20/8/2018 của UBND tỉnh phê duyệt Đề án thực hiện thí điểm cơ chế đặc thù trong việc tổ chức đưa đón các Đoàn xe du lịch tự lái Trung Quốc vào du lịch trong địa phận Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng – Lạng Sơn qua cặp cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị (Việt Nam) – Hữu Nghị Quan (Trung Quốc). Thông qua những hoạt động này đã góp phần phát triển văn hóa công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Thứ sáu, chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Trong việc giao lưu hợp tác quốc tế về văn hóa, tỉnh đã ký kết với Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây Trung Quốc “Hiệp định công tác quản lý trao đổi văn hóa dân gian nhân dân biên giới hai nước Việt – Trung”. Hoạt động ngoại giao văn hóa giữa hai Tỉnh – Khu được tổ chức như: giao lưu, tìm hiểu về văn hóa, lịch sử truyền thống của cộng đồng các dân tộc, học tập trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động du lịch, công tác quản lý, đào tạo, biểu diễn nghệ thuật, hoạt động văn hóa, thể thao nhân dịp hai bên tổ chức sự kiện quan hệ giao lưu, lễ hội. Mỗi năm cấp tỉnh có trên 10 đoàn ra vào thực hiện giao lưu, trao đổi, đàm phán về văn hóa, thể thao, du lịch. Tại 05 huyện biên giới và các xã, thị trấn hằng năm cũng có các hoạt động giao lưu văn hóa, thể thao “kết nghĩa” với các địa phương của nước bạn.
Đó là một số những kết quả đạt được trong việc thực hiện nhiệm vụ của Nghị quyết số 33-NQ/TW trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Đối với người giảng viên khoa Xây dựng Đảng, Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ được giao nhiệm vụ thực hiện giảng dạy nội dung phần IV “Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống xã hội” trong Chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính trong đó có bài “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” nội dung của bài học tập trung xoay quanh làm rõ những quan điểm và nhiệm vụ của Nghị quyết số 33-NQ/TW. Vì vậy, thông qua việc tuyên truyền chủ trương đường lối của Đảng, giảng viên cần liên hệ, vận dụng số liệu thực tế của kết quả thực hiện nhiệm vụ Nghị quyết quyết số 33-NQ/TW vào bài giảng, lôgic sinh động sẽ giúp học viên có một cách nhìn, cách hiểu tổng quát về chủ trương đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam. Vậy để vận dụng được tốt những kết quả của việc thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW giảng viên cần:
Một là, trong nội dung bài 4 gồm 3 nội dung cơ bản trong đó nội dung 1 nói về các quan điểm và nội dung 3 nói về nhiệm vụ trong nghị quyết: ở nội dung 1 khi phân tích phần quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam, giảng viên cần làm rõ những văn bản đầu tiên, nền tảng của Đảng nói về văn hóa như: Đề cương về văn hóa Việt Nam 1943, Nghị quyết Hội nghị trung ương 5 khóa VIII và đặc biệt nhấn mạnh 5 quan điểm trong Nghị quyết số 33-NQ/TW, phân tích, liên hệ với những kết quả đạt được trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Còn nội dung 3 khi phân tích những nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong giáo trình chỉ đề cập những nhiệm vụ trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII chưa đề cập đến những nhiệm vụ trong Nghị quyết số 33-NQ/TW. Vì vậy, khi giảng giải và phân tích nội dung phần học này giảng viên cần bổ sung thêm những nhiệm vụ và phân tích làm rõ lấy ví dụ cụ thể về những kết quả đạt được trong việc thực hiện những nhiệm vụ ở cơ sở để làm sáng tỏ vấn đề.
Hai là, tiếp tục thực hiện tốt Kết luận 76/KL/TW, ngày 04/6/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW về “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” nhất là trong giai đoạn hội nhập và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Ba là, giảng viên cần chỉnh sửa bổ sung ngay những điểm mới trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII vào bài giảng trong đó cụ thể là những định hướng và nhiệm vụ về phát triển văn hóa được nêu trong văn kiện Đại hội. Trong đó định hướng thứ 4 là: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa”[1], và 6 nhiệm vụ trọng tâm trong đó nhiệm vụ trọng tâm thứ (4): “phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số”[2] .
Với những kết quả quan trọng đã đạt được trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên và Nhân dân về xây dựng, phát triển văn hóa. Những chuẩn mực văn hóa và nhân cách, giá trị con người được giữ gìn và phát huy. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa phát triển sâu rộng, các di sản văn hóa được bảo tồn và phát huy góp phần giữ vững ổn định chính trị, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở cơ sở.
Triệu Thị Huệ
Giảng viên khoa Xây dựng Đảng