Skip to main content
x
5 March 2024

Cách đây 94 năm, ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta. Những thắng lợi giành được trong 94 năm qua kể từ ngày có Đảng lãnh đạo là minh chứng sinh động nhất về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và sức mạnh to lớn của nhân dân ta.

1. Bối cảnh thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến độc lập thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra hết sức gay gắt. Hàng loạt phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác nhau liên tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó, tiêu biểu là phong trào Cần Vương do Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng; phong trào Đông Du của Phan Bội Châu; phong trào cải cách của Phan Chu Trinh, khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo... Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, nhưng cuối cùng đều bị thất bại vì thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc.

Trong bối cảnh lịch sử đó, ngày 5 tháng 6 năm 1911, trên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville) của hãng Năm sao, từ bến cảng Nhà Rồng, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (bí danh Văn Ba) rời Tổ quốc bắt đầu cuộc hành trình lịch sử đi tìm đường cứu nước. Hành trang của Người chỉ có lòng yêu nước thiết tha, cùng với sự hấp dẫn của tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyết tâm cháy bỏng “tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đây là tất cả những điều tôi hiểu”[1].

1

Trong thời gian bôn ba khắp thế giới, đặc biệt là những năm tháng sống ở Mỹ, Anh, Pháp,... Người đã tìm hiểu, nghiên cứu cách mạng Mỹ năm 1776, cách mạng Pháp năm 1789. Song, Người nhận ra rằng, những cuộc cách mạng ấy là “những cuộc cách mạng chưa đến nơi”, nghĩa là cách mạng rồi mà nhân dân lao động ở đó vẫn chưa được giải phóng, vẫn còn bị áp bức, bóc lột và rất cực khổ. Vì vậy, sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc khỏi mọi áp bức, bóc lột không thể đi theo con đường của những cuộc cách mạng đó, mà phải theo con đường khác.

Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc tiếp cận Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin được đăng trên tạp chí Quốc tế cộng sản số 11, ngày 14-7-1920; và trên báo Nhân đạo (L’Humanité) - cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Pháp, số ra ngày 16 và 17-7-1920. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra "cẩm nang thần kỳ" cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Người khẳng định rằng, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc cho rằng: “Muốn cách mạng thành công trước hết phải có Đảng cách mạng, ở trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”[2]. Từ đó, Người đã nỗ lực xúc tiến vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Để làm cơ sở cho việc thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tháng 6 năm 1925, trong đó có hạt nhân lãnh đạo là Cộng sản đoàn, để bồi dưỡng và phát huy mạnh mẽ tinh thần dân tộc của những người yêu nước trong giai cấp công nhân, nông dân và tiểu tư sản trí thức, kết hợp với việc giáo dục cho họ về chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, nhằm đào tạo họ thành những người cộng sản Việt Nam. Hội là một tổ chức quá độ, rất phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam lúc đó. Từ cuối 1928 đến đầu 1929, phong trào “vô sản hóa” do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên xây dựng và tổ chức đã tích cực đưa hội viên vào các đồn điền, hầm mỏ, nhà máy, nông thôn để rèn luyện học tập nâng cao lập trường giai cấp công nhân, đồng thời truyền bá lý luận Mác - Lênin, đường lối cách mạng đúng đắn vào phong trào công nhân, giác ngộ họ, tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác, thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam: Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929), An Nam Cộng sản Đảng (11-1929), Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn (1-1930).

Sự ra đời ba tổ chức cộng sản trên cả nước diễn ra trong vòng nửa cuối năm 1929 và đầu năm 1930 đã khẳng định bước tiến về chất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở ba miền không tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức trên cả nước. Trước tình hình đó, Quốc tế Cộng sản nêu rõ nhiệm vụ của những người cộng sản Đông Dương "là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức duy nhất ở Đông Dương"[3].

Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản đã diễn ra. Các đại biểu tham dự Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Ngày 3 tháng 2 năm 1930 trở thành Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. 

2

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 94 năm qua.

2. Những chặng đường lịch sử vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam

Lịch sử 94 năm của Đảng là lịch sử của quá trình lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Lịch sử của Đảng gắn liền với lịch sử cách mạng Việt Nam, đã trải qua nhiều chặng đường đấu tranh gian khổ, hào hùng và hết sức oanh liệt, vẻ vang:

* Chặng thứ nhất (1930-1945): Đảng lãnh đạo, tổ chức vận động cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân

Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, trong bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình.

Theo Cương lĩnh đó, Đảng đã phát cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, qua đó đã khẳng định trong thực tiễn vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng và sức mạnh của khối liên minh công nông. Sau cuộc đấu tranh đầy gian khổ để bảo vệ Đảng, duy trì tổ chức quần chúng, khôi phục phong trào cách mạng những năm 1932-1933, Đảng đã biết chuyển ngay sang đấu tranh đòi dân sinh dân chủ thời kì 1936-1939 khi tình hình trong nước và thế giới có sự biến chuyển mới. Phong trào đấu tranh những năm 1936-1939 đã làm cho ảnh hưởng của Đảng ăn sâu, lan rộng trong quảng đại quần chúng, sự giác ngộ chính trị của quần chúng được nâng cao.

Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng ta đã chuyển hướng chiến lược cách mạng, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tập trung vào mục tiêu giành độc lập, giành chính quyền về tay nhân dân. Chính từ sự chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc những năm 1939-1945 và nắm bắt thời cơ lịch sử một cách chuẩn xác và kịp thời khi Nhật đã đầu hàng quân Đồng Minh, Đảng đã phát động cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, xoá bỏ tận gốc chế độ thuộc địa nửa phong kiến, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”[4].  Thắng lợi ấy đã mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giành độc lập cho đất nước, làm thay đổi cả vận mệnh dân tộc, thay đổi cả thân phận của người dân Việt Nam.

3

* Chặng đường thứ hai (1945-1975): Đảng tổ chức và lãnh đạo thắng lợi các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Chỉ sau 3 tuần độc lập, với mưu đồ trở lại thôn tính Việt Nam, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược Nam Bộ (23-9-1945). Trước bối cảnh chính quyền còn non trẻ, Đảng vừa ra hoạt động công khai, nắm chính quyền cách mạng thì phải đối phó với vô vàn khó khăn. Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, tình thế cách mạng Việt Nam như “ngàn cân treo sợi tóc”. Nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam dựa trên nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, giữ vững chủ quyền của đất nước, vững vàng bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc, với đường lối toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh là chính.

Sau 9 năm kháng chiến trường kỳ, thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954) đã bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám 1945, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp, giải phóng miền Bắc, đưa cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục tiến hành cách mạng giải phóng ở miền Nam. “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới”[5].  

4

Sau khi Hiệp định Giơnevơ ký kết, với mưu đồ nhằm biến miền Nam Việt Nam thành “con đê” ngăn chặn “làn sóng đỏ” – chủ nghĩa xã hội sang Đông Nam Á, đế quốc Mỹ từng bước can thiệp và tiến hành xâm lược miền Nam, chia cắt đất nước, phá hoại cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc bằng không quân và hải quân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân cả nước đã đồng tâm hiệp lực, hướng về mục tiêu giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước. Đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng là một điểm sáng tạo độc đáo của đường lối cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này.

Trải qua 21 năm chiến đấu, với đường lối chiến tranh nhân dân, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh của thời đại, cả nước đồng tâm, nhất trí đi theo một hướng của Đảng. Nhân dân Việt Nam đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới của đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc, thu giang sơn về một mối. Thắng lợi của cách mạng miền Nam, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân trên đất nước, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước. Chiến công ấy là “một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”[6]. Từ đây, dân tộc Việt Nam tiến vào một kỉ nguyên mới – kỷ nguyên cả nước hòa bình, thống nhất, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

5

* Chặng đường thứ ba (1975 - nay): Đảng khởi xướng và lãnh đạo thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước

Thắng lợi của nhân dân ta sau hơn 30 năm đã đưa đất nước bước sang một thời kì mới, thời kì cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh phải khắc phục rất nhiều khó khăn do hậu quả nhiều mặt của chiến tranh để lại, Đảng và nhân dân ta lại phải đương đầu với cuộc chiến tranh ở hai đầu biên giới phía Nam, phía Bắc, trong những năm 1975- 1986, Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những thành quả to lớn trong bảo về Tổ quốc và những thành tựu đáng kể về kinh tế. Đồng thời, trong thời gian đó, với bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng đã kiên trì tìm tòi đề ra đường lối đổi mới trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, đất nước chồng chất khó khăn.

Công cuộc đổi mới đất nước hơn 35 năm qua đã đưa dân tộc vượt qua thử thách hiểm nghèo, phá thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo tiền đề vững chắc để đất nước ngày càng phát triển. Qua ba năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, chúng ta đã vừa tập trung phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh, vừa thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và hiệu quả. Kinh tế nước ta tiếp tục là điểm sáng, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát, nợ công, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Tăng trưởng kinh tế năm 2021 đạt 2,56%, trong khi nhiều nền kinh tế trên thế giới tăng trưởng âm; tăng trưởng kinh tế năm 2022 đạt 8,02%, cao hơn nhiều so với kế hoạch 6-6,5%. Năm 2023 đạt hơn 5%, là mức cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới; lần đầu tiên GDP của nước ta đạt mức 430 tỉ USD, đứng thứ 3 trong ASEAN và thuộc nhóm 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài [7].

Như vậy, từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại. Với những thắng lợi đã giành được trong 94 năm qua, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Trong lãnh đạo, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết điểm; có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Nhưng với bản lĩnh vững vàng, thực sự khiêm tốn, cầu thị, Đảng ta đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm. Nhìn lại chặng đường đấu tranh oanh liệt của Đảng ta trong 94 năm qua, chúng ta càng tự hào về Đảng ta - Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh một lòng một dạ chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.

_________________

[1] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Nghệ An, 2005, tr. 44

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 267-268).

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1998, tr.614..

[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 25

[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 410

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật, 1977, tr. 5-6.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2023): Báo cáo tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam giữa nhiệm kỳ khóa XIII

 

6