Skip to main content
x
21 November 2023

1. Hoàn cảnh ra đời

Giữa năm 1944, tình hình thế giới có những chuyển biến mau lẹ. Hồng quân Liên Xô chuyển sang phản công và giành thắng lợi trên nhiều mặt trận. Trong nươc, tháng 8-1944, Trung ương Đảng ra Lời kêu gọi nhân dân “cầm vũ khí, đuổi thù chung”. Không khí khởi nghĩa sôi sục khắp nơi. Cuối năm 1944, nhân dân vùng Cao - Bắc - Lạng đã sẵn sàng phát động khởi nghĩa. Đúng vào lúc ấy, Hồ Chí Minh về nước sau khi ra khỏi nhà tù của Tưởng Giới Thạch, nhận thấy điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi, Người đã kịp hoãn cuộc khởi nghĩa ở 3 tỉnh. Người nói: “Thời kỳ cách mạng hòa bình phát triển đã qua nhưng thời kì toàn dân khởi nghĩa chưa tới ... Cuộc đấu tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Song hiện nay, chính trị còn trọng hơn quân sự. Phải tìm ra một hình thức thích hợp thì mới đẩy mạnh phong trào tiến lên”[1]. Trên cơ sở phân tích tình hình các lực vũ trang, du kích và trước nhu cầu của cách mạng. Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với các nội dung sau:

1. Tên: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền. Vì muốn hành động có kết quả thì về quân sự, nguyên tắc chính là nguyên tắc tập trung lực lượng, cho nên, theo chỉ thị mới của Đoàn thể sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những đội du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực. Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, cùng phải động viên toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Đội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt các đội vũ trang các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên.

2. Đối với các đội vũ trang địa phương: đưa các cán bộ địa phương về huấn luyện, tung các cán bộ đã huấn luyện đi các địa phương, trao đổi kinh nghiệm, liên lạc thông suốt, phối hợp tác chiến.

3. Về chiến thuật: vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay đông mai tây, lai vô ảnh, khứ vô tung. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân đàn anh, mong có những đội đàn em khác.

Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của Giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam chúng ta.

Chỉ thị rất ngắn gọn, súc tích, bao gồm nhiều vấn đề chủ yếu về đường lối quân sự của Đảng như: Vấn đề kháng chiến toàn dân, nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, phương châm xây dựng ba thứ quân, phương thức hoạt động kết hợp quân sự với chính trị của lực lượng vũ trang, nguyên tắc tác chiến và chiến thuật du kích của lực lượng vũ trang.

Thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngày 22-12-1944, tại khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo (xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng ngày nay), đồng chí Võ Nguyên Giáp đã tuyên bố chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân. Đội có 34 chiến sĩ, biên chế thành 3 tiểu đội, có chi bộ Đảng lãnh đạo được trang bị chỉ gồm 2 súng "Thất cửu" (Hanyang 88), 17 súng trường, 14 súng kíp và một số súng tiểu liên. Đồng chí Xích Thắng làm Thư ký chi bộ. Đội trưởng là đồng chí Hoàng Sâm (tức Trần Văn Kỳ); Chính trị viên là đồng chí Xích Thắng (tức Dương Mạc Thạch). Đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách Kế hoạch-Tình báo của đội. Đồng chí Văn Tiên (tức Lộc Văn Hùng) làm quản lý. Trong buổi thành lập, đội đã tuyên đọc Mười lời thề danh dự của Đội quân giải phóng Việt Nam. Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân chính là đơn vị chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng và là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 22-12-1944 cũng được lấy làm ngày Thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.

1

2. Thắng lợi đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân

Thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh: trong vòng một tháng sau khi ra đời, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân phải có hành động để gây tin tưởng cho các chiến sĩ và xây dựng truyền thống hành động tích cực nhanh chóng cho bộ đội, trận đầu nhất định phải thắng lợi, Đội đã tích cực khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho trận đánh đầu tiên.

Dưới sự chỉ huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp, Đội thảo luận kỹ lưỡng để làm rõ vấn đề: Đánh vào đâu và đánh như thế nào, để chỉ với một lực lượng nhỏ nhưng có thể giành được thắng lợi to lớn về chính trị và quân sự, đồng thời hạn chế tổn thất về người và vũ khí của ta. Sau khi bàn bạc các phương án, Ban chỉ huy đội quyết định “phải tập kích vào đồn trại của địch để chiếm lấy đạn dược”, mục tiêu là đồn Phai Khắt và Nà Ngần. Để bảo đảm các yêu cầu đặt ra, Ban chỉ huy quyết định chọn đồn Phai Khắt đánh trận đầu và kế đó đánh đồn Nà Ngần.

Ngay sau ngày 22-12-1944, toàn đội hành quân về Roỏng Bó, cách Phai Khắt hơn nửa ky-lô-mét để chuẩn bị ra quân trận đầu theo kế hoạch đã chuẩn bị trước đó.

Phai Khắt là một bản nhỏ thuộc xã Tam Lọng, tổng Kim Mã, châu Nguyên Bình (nay thuộc xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng). Từ đây có ba con đường đi các ngả, về phía Nam đi Ngân Sơn, về phía Đông Bắc đi Nà Ngần và một con đường độc đạo ra châu lỵ Nguyên Bình.

Bản thân đồn Phai Khắt là một ngôi nhà gạch bị quân Pháp chiếm làm điểm chốt kiềm chế phong trào cách mạng do Việt Minh lãnh đạo. Xung quanh đồn, địch rào một hàng rào bằng cây vầu cao 2m, chỉ để 2 cửa ra vào, 1 ở sau nhà, 1 vào thẳng đồn, có đặt vọng gác. Vòng ngoài bản, chúng bắt nhân dân thay phiên nhau canh gác, còn vòng trong do lính của đồn trực tiếp canh gác.

Lực lượng đánh đồn gồm 2 tiểu đội, dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Võ Nguyên Giáp. Ngoài ra, còn có sự tham gia của du kích và cán bộ Việt Minh địa phương làm nhiệm vụ canh gác các ngả đường vào bản. Chiều ngày 24-12-1944, lực lượng tham gia trận đánh cải trang thành lính dõng, hành quân về Phai Khắt.

Sau khi nhận được tin đồn trưởng người Pháp đã đi Nguyên Bình, chớp cơ hội 17 giờ ngày 25-12-1944, “Đội xếp” do tiểu đội trưởng Thu Sơn cải trang dẫn quân tiến vào đồn một cách dễ dàng. Đội nhanh chóng chia làm 2 mũi: Tiểu đội 1 đánh chiếm nơi để súng, Tiểu đội 2 bao vây đồn. Địch bị bất ngờ, không kịp trở tay, nhanh chóng đầu hàng. Trận đánh diễn ra nhanh chóng, tên đồn trưởng từ Nguyên Bình trở về cũng bị tiêu diệt. Kết quả, ta tiêu diệt 1 tên dịch và bắt sống 17 tên khác, thu được 17 khẩu súng, một ít đạn và quân trang.

2

Sau khi hạ được đồn Phai Khắt, ngay trong đêm 25-12-1944, đội khẩn trương hành quân tới xã Cẩm Lý (cách Phai Khắt 15km), nơi có đồn Nà Ngần. 

Ðồn Nà Ngần nằm trên một đồi cao, địa thế hiểm trở, từ ngoài vào phải qua mấy thung lũng. Ðịch chọn nhà của tên phó lý trong vùng làm nơi đóng quân, một ngôi nhà sàn 3 gian kiên cố nhất trong bản, có hàng rào kín mấy lớp vây chung quanh, biến thành một đồn lính. Do địa thế đồn Nà Ngần hiểm trở, nên đội quyết định tiếp tục cải trang làm một toán lính dõng, lính khố đỏ áp giải 3 thành viên Việt Minh đến giao nộp cho quan đồn. Lực lượng đánh đồn Nà Ngần là toàn bộ đội viên đã tham gia đánh đồn Phai Khắt.

Khoảng 7 giờ sáng ngày 26-12-1944, đồng chí Thu Sơn cùng tổ xung phong dẫn 3 đảng viên giả dạng bị trói vào đồn. Bọn lính tưởng thật vội bố trí 6 lính và tên cai ra xếp hàng đón theo nghi thức nhà binh. Sau khi cả đội tiến vào đồn, theo kế hoạch đã phân công, 4 chiến sĩ tiến tới gian giữa án ngữ giá để súng. Tiểu đội 2 chặn các cửa đồn, sau đó chia thành từng tổ vây bắt tù binh. Tiểu đội 3 vừa bắn chỉ thiên vừa gọi địch đầu hàng.

Kết thúc trận đánh, ta tiêu diệt 5 tên, bắt 17 tên, thu 27 súng và nhiều đạn. Sau khi hạ đồn xong, đội nhanh chóng thu gom súng đạn, tài liệu và phát truyền đơn biểu ngữ cho nhân dân. Tốp tù binh được tập hợp ở giữa sân, 2 nữ đồng chí Cầm và Thanh giải thích bằng tiếng Tày cho họ hiểu chủ trương chính sách đánh Pháp, Nhật, cứu nước của Việt minh, kêu gọi họ quay súng vào Pháp- Nhật để giành độc lập cho dân tộc. Sau khi được nghe chính sách của Việt minh, một số tù binh xin đi theo cách mạng còn đa phần xin được trở về quê.

3

Hai trận thắng đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân gây tiếng vang mạnh mẽ, làm nức lòng nhân dân, mở ra một thời kỳ phát triển mới của cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân ta.

Đồng chí Võ Nguyên Giáp viết: “chỉ sau hai ngày ra đời, Đội đã xuất quân đánh hai trận liên tục Phai Khắt (chiều 25-12-1944) và Nà Ngần (sáng 26-12-1944), tiêu diệt gọn quân địch, giành chiến thắng trận đầu giòn giã. Vì sao Đội giành được thắng lợi lớn như vậy? Có thể nói, thực hiện đúng những lời căn dặn của Bác Hồ khi thành lập chính là những bài học thành công của Đội, đó cũng là những bài học kinh nghiệm cơ bản đối với quân đội ta"[2].

Ngay từ lần đầu ra quân, đội quân chính quy đầu tiên của Việt Nam đã lập nên những chiến công vang dội, giải phóng những khu vực rộng lớn làm căn cứ cho các hoạt động đấu tranh giành độc lập, mở đầu truyền thống quyết chiến quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam sau này. Ngày 15-5-1945, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân sáp nhập với lực lượng Cứu quốc quân và đổi tên thành Giải phóng quân, trở thành lực lượng quân sự chủ lực của Mặt trận Việt Minh khi tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945. Từ một đội quân chỉ vài trăm người khi tham gia Tổng khởi nghĩa, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát triển thành quân đội với các sư đoàn chủ lực mạnh, lập nên những chiến công lẫy lừng mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử ngày 07-5-1954, đập tan mưu toan thiết lập lại chế độ thuộc địa của thực dân Pháp, đồng thời tạo nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Sau chiến thắng lịch sử năm 1975, Quân đội nhân dân Việt Nam cùng với nhân dân cả nước tiến hành thắng lợi các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đổi mới, Quân đội tiếp tục làm tốt chức năng của đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động, sản xuất; đóng vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Đồng thời Quân đội luôn chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước về quân sự, quốc phòng, hoạch định đường lối chiến lược bảo vệ Tổ quốc; đánh giá, dự báo đúng tình hình, xử lý tốt các tình huống, không để bị động, bất ngờ, nhất là trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước.

Trải qua hơn 79 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quân đội nhân dân Việt Nam không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện, sức mạnh chiến đấu, phát huy sức mạnh tổng hợp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại và tiến lên hiện đại, góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

_______________

[1] - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, H. 2001, tr. 539

[2] - Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập hồi ký, Nxb QĐND, H. 2006, tr. 84

 

4