Skip to main content
x
10 November 2022

Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó được hun đúc, hình thành và phát triển bởi tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ của dân tộc ta trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, chiến thắng mọi thiên tai, địch họa, để xây dựng nên Tổ quốc Việt Nam ngày càng cường thịnh. Thực hiện đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng nước ta. Đảng ta khẳng định, mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải phản ánh được nguyện vọng, quyền lợi của đại đa số dân chúng để có thể tập hợp, đoàn kết mọi lực lượng cho cách mạng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua đã chứng minh rằng, đại đoàn kết dân tộc là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Điều đó tiếp tục được khẳng định, phát triển, vận dụng sáng tạo trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh và Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về đại đoàn kết dân tộc vào phát huy sức mạnh đoàn kết ở trường Chính trị Hoàng Văn Thụ trong bối cảnh hiện nay có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, cả về mặt lý luận và thực tiễn để nhà trường ngày càng đoàn kết, phát triển, xứng tầm với vị thế và nhiệm vụ được giao.

  1. Vấn đề đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh và Văn kiện Đại hội XIII của Đảng

Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh có tới trên 400 bài nói, bài viết về đoàn kết. Những bài nói, bài viết đó đã thể hiện một cách toàn diện, sâu sắc tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc. Qua mỗi giai đoạn cách mạng, từng kỳ Đại hội, Đảng đã có sự vận dụng sáng tạo tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh. Nội hàm xuyên suốt trong nội dung Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chính là đại đoàn kết, vì thế từ “đoàn kết” đã được 11 lần nhắc đến trong Nghị quyết của Đại hội. Để đạt được mục tiêu chiến lược đó, Đại hội đã nhấn mạnh việc phải: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[1].

Về vị trí, vai trò của đại đoàn kết dân tộc đối với cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định, đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cơ bản, nhất quán, xuyên suốt, lâu dài, là vấn đề sống còn mang tính quy luật, quyết định thành công của cách mạng chứ không phải chỉ là vấn đề sách lược hay phương pháp tổ chức lực lượng trong từng thời điểm. Người khẳng định: “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”[2]. Vì thế: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị”[3].

Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng tiếp tục khẳng định tầm quan trọng chiến lược của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghị quyết khẳng định, những thành tựu mà chúng ta đạt được trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII chính là “Do phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự tham gia đồng bộ, quyết liệt của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân”. Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, Đại hội XIII đã tiếp tục khẳng định đây là một quan điểm, chủ trương lớn cần được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nỗ lực củng cố, tăng cường trong chặng đường tiếp theo của cách mạng nước ta. Quan điểm chỉ đạo của Đại hội XIII xác định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.

Về Lực lượng và hình thức tổ chức đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên cơ sở thống nhất lợi ích quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng; trong đó, nòng cốt khối đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh công - nông - trí dưới sự lãnh đạo của Đảng.Người chủ trương đoàn kết rộng rãi, mở rộng và tranh thủ tất cả những lực lượng và bộ phận có thể tranh thủ, kể cả những người đã lầm đường lạc lối nhưng biết hối cải trở về với chính nghĩa dân tộc. Người khẳng định: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. “Ai có tài, có sức, có đức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”[4]...

Quan điểm của Đại hội XIII thể hiện rõ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam hiện nay được cấu thành bởi mọi người dân Việt Nam trong tất cả các dân tộc, tôn giáo, các giai cấp, tầng lớp, bộ phận xã hội khác nhau. Tiếp tục phát triển quan điểm của Đại hội XII, Đại hội XIII khẳng định tầm quan trọng không thể thay thế của tất cả các giai cấp, tầng lớp xã hội nhưng không xác định vai trò “nền tảng” của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đối với bất kỳ giai cấp, tầng lớp nào. Điều đó không làm giảm đi sự vững chắc, sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không ảnh hưởng đến định hướng, mục tiêu của việc xây dựng khối đại đoàn kết, mà ngược lại còn làm cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng thêm bền chắc, không ngừng mở rộng và phát huy được tối đa sức mạnh.

Hình thức tổ chức lực lượng đại đoàn kết toàn dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Mặt trận dân tộc thống nhất được thành lập với những tên gọi khác nhau nhưng nhiệm vụ và xứ mệnh thì không hề thay đổi. Hồ Chí Minh khẳng định: “Mặt trận bao gồm tất cả những người yêu nước, không phân biệt khuynh hướng chính trị, tín ngưỡng, tôn giáo, giai cấp xã hội, nam nữ và tuổi tác”[5]. Trong Mặt trận, xương sống và sức mạnh chủ yếu của khối đại đoàn kết là khối liên minh công nông làm nền tảng, Người nói: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”[6].

Đánh giá về vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong khối đại đoàn kết dân tộc, Đại hội XIII khẳng định: “Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, thực hành dân chủ, xây dựng đồng thuận xã hội”.

Về nguyên tắc và phương pháp phát đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong thực hiện đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh đã đưa ra những nguyên tắc thực hiện, đó là: Tin vào dân, dựa vào dân vì lợi ích của dân; đoàn kết lâu dài, rộng rãi, chặt chẽ, tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đoàn kết trên cơ sở hiệp thương, dân chủ, chân thành, thẳng thắn, thân ái; đoàn kết gắn với đấu tranh, tự phê bình và phê bình; đoàn kết trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Cùng với các nguyên tắc, Người cũng đưa ra những phương pháp cơ bản để thực hiện đại đoàn kết dân tộc như: tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân; phải chăm lo xây dựng và xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là cầu nối gắn kết Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc, phương pháp đại đoàn kết dân tộc, Nghị quyết đại Hội XIII của Đảng đã đề ra các chủ trương và giải pháp chủ yếu để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bao gồm:

(1) Thực hiện tốt chính sách xã hội, tạo điều kiện cho mọi giai cấp, tầng lớp xã hội phát triển vững mạnh. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ thực sự vững mạnh khi mỗi thành tố cấu thành nên nó cũng không ngừng được củng cố, phát triển ngày càng lớn mạnh. Đảng chủ trương phát triển toàn diện, đồng bộ tạo mọi điều kiện cho các giai cấp, tầng lớp xã hội như công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân ... có cơ hội bình đẳng phát triển, ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, góp phần tích cực vào sự phát triển chung của đất nước. “Đảm bảo các dân tộc bình đằng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”[7]. Đồng thời phải “Chú trọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số”[8].

    1. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nghị quyết khẳng định phải chú trọng “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”.
    2. Phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong đó, cần phải “chú trọng đặc biệt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ”.
    3. Giải quyết tốt các mối quan hệ, thu hẹp những khác biệt giữa các bộ phận xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nghị quyết khẳng định, trong điều kiện Việt Nam hiện nay, các mối quan hệ cần tập trung giải quyết để củng cố sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đó chính là mối quan hệ dân tộc, tôn giáo; mối quan hệ với người Việt Nam ở nước ngoài. Đây vừa là quan điểm chỉ đạo, vừa là chủ trương và giải pháp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam trong tình hình mới.
  1. Vận dụng vào phát huy sức mạnh khối đoàn kết tại Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ hiện nay

Trong những năm qua, trường Chính trị Hoàng Văn Thụ đã luôn coi trọng vấn đề xây dựng và củng cố khối đoàn kết trongmỗi cán bộ, đảng viên, viên chức, người lao động của nhà trường. Vì vậy, nhà trường đã đạt được nhiều thành tích xuất sắc trong công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và các lĩnh vực.Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới và trong nước hiện nay, đất nước nói chung cũng như Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ nói riêng vẫn đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen những tác động và nhiều diễn biến phức tạp đã ít nhiều gây ảnh hưởng đến tâm lý, tư tưởng, và việc xây dựng khối đoàn kết, thống nhất ở nhà trường. Đứng trước tình hình chung của công tác xây dựng Đảng, xây dựng khối đoàn kết trong thời gian qua, Đảng ta cũng nhận định “Một số nơi còn tiềm ẩn nguy cơ mất đoàn kết, không thể xem thường, bên cạnh đó không ít tổ chức Đảng có biểu hiện đoàn kết xuôi chiều”[9]; “Sự đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp ủy chưa tốt”[10].

Thực trạng này cũng được Nghị quyết TW 4 khóa XII nhấn mạnh là có biểu hiện kéo dài, chậm được khắc phục, thậm chí có xu hướng gia tăng, chưa thực sự được phát hiện và cảnh báo, ngăn chặn kịp thời dẫn đến ảnh hưởng không nhỏ về việc xây dựng đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng và hành động của một số cấp ủy, mốt số cơ quan, địa phương còn yếu. Trong khi đó, tác động của bối cảnh toàn cầu hóa với những thời cơ và thách thức; thuận lợi và khó khăn đan xen với nhiều diễn biến nhanh chóng, khó lường và phức tạp càng đòi hỏi các tổ chức Đảng, các đảng bộ phải có quyết tâm chính trị cao, sự thống nhất chặt chẽ để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ của tổ chức, cơ quan, đơn vị. Hơn lúc nào hết, sự đoàn kết, thống nhất ở trong quan, đơn vị, tổ chức càng phải được thể hiện rõ, phải được khẳng định trong thực tiễn để làm cơ sở cho việc xây dựng khối đoàn kết thống nhất thực sự.

 Để phát huy những thành tích đã đạt được, khắc phục những hạn chế còn tồn tại, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII về đại đoàn kết, trong thời gian tới chúng ta cần quán triệt một số giải pháp sau:

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ủyvề nhất quán thực hiện mục tiêu củng cố, phát triển khối đại đoàn kết ở nhà trường. Để thực hiện được điều này đòi hỏi phải có sự nỗ lực từ nhiều phía. Đối với các đồng chí trong Đảng Ủy, lãnh đạo nhà trường thì phải tăng cường hơn nữa sự đồng thuận, nhất trí cao trong mọi chủ trương, chính sách lãnh đạo, chỉ đạo. Về phía cán bộ, đảng viên, viên chức, người lao động của cũng phải tăng cường ý thực kỷ luật, chấp hành nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đảng ủy, nội quy của cơ quan, luôn gương mẫu, đi đầu trong thực thi nhiệm vụ được giao. Để có sự đồng thuận giữa Đảng ủy, lãnh đạo nhà trường với đội ngũ cán bộ, viên chức, người lao động thì mỗi chủ trương, chính sách đưa ra phải được bàn bạc dân chủ, thống nhất trên tinh thần đồng thuận và nhất trí cao.

Thứ hai, đoàn kết phải chân thành, thật thà, thực sự tin yêu nhau.Từ người đứng đầu cho đến từng cán bộ, đảng viên, viên chức, người lao động phải chân thành, đúng như Hồ Chí Minh đã dạy: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”. Đồng thời, mỗi người cũng phải nâng cao tinh thần tự phê bình và phê bình để giúp nhau cùng phát triển. Tuy nhiên: “Phê bình để giúp nhau cùng tiến bộ chứ không phải mạt sát, hạ uy tín của nhau”. Để làm được điều này, vai trò nêu gương của người đứng đầu tổ chức có ý nghĩa quyết định. Chỉ khi người đứng đầu gương mẫu tự phê bình, phải thực tâm lắng nghe ý kiến đóng góp của đồng chí, của đồng nghiệp và cấp dưới thì mới tạo được không khí dân chủ, tạo ra được động lực để cả cấp ủy, cả đơn vị tiến hành tự phê bình và phê bình một cách thực chất đúng như Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thực hành dân chủ rộng rãi, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát huy sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”.

Thứ ba, thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết gắn với đấu tranh với các hành vi sai trái, làm ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết của nhà trường. Bên cạnh việc phát huy tinh thần dân chủ, công khai thì mỗi cán bộ, đảng viên, người lao động cũng phải nâng cao hơn nữa tinh thần tự phê bình và phê bình, dám lên tiếng đấu tranh với những hành vi sai trái, lệch lạc, vu khống lãnh đạo, bôi nhọ tổ chức, đi ngược với lợi ích chung của mọi người, làm ảnh hưởng tới tinh thần đoàn kết tại cơ quan đơn vị.

Thứ tư, tăng cường đổi mới phương pháp tuyên truyền, giáo dục, giải quyết kịp thời những vấn đề tư tưởng phát sinh trong cán bộ, đảng viên và người lao động. Hồ Chí Minh cho rằng, đoàn kết là một khoa học và nghệ thuật. Muốn có đại đoàn kết, cần phải tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng một cách khéo léo để mọi người tự giác đoàn kết, từ đó tự nguyện tham gia. Việc tăng cường đổi mới phương pháp tuyên truyền, giáo dục sẽ giúp từng cán bộ, đảng viên, người lao động hiểu rõ hơn về chủ trương, chính sách của nhà tường, từ đó học sẽ tích cực, chủ động thực hiện các chủ trương chính sách đó. Ngược lại, nếu công tác tuyên truyền, giáo dục không tốt, không kịp thời nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, viên chức, người lao động, sẽ làm nảy sinh những vấn đề tư tưởng, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gây mất đoàn kết trong nội bộ tổ chức, trong từng cán bộ, đảng viên và người lao động.

Thứ năm, tăng cường kiểm tra giám sát, đôn đốc việc thực hiện các cuộc vận động học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng ủy cấp trên về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vận dụng vào trong thực tiễn phát huy khối đoàn kết tại trường Chính trị Hoàng Văn Thụ. Hàng năm, nhà trường nên có kế hoạch cụ thể trong việc triển khai, kiểm tra, đánh giá các hoạt động này, coi đó là một trong những tiêu chuẩn đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức đảng các cấp và của từng cán bộ, đảng viên, người lao động của nhà trường./.

ThS. Hoàng Bích Trâm

GV. Phòng Quản lý đào tạo và NCKH

 

 

[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.215.

[2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.186.

[3]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Sđd, tr. 244.

[4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Sđd, tr. 244.

[5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Sđd, tr. 331.

[6]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Sđd, tr. 417.

[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.170.

[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.170.

[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Trung ương 9,khóa IX, tr.127.

[10]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.175.