Skip to main content
x
10 November 2022

1. Nhận thức vai trò của ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Ý chí là khả năng vượt qua mọi khó khăn để đạt được mục đích, là sức mạnh tinh thần to lớn, là động lực cổ vũ con người đứng lên, vượt qua những rào cản trên con đường phấn đấu để đạt được mục đích. Ý chí giúp con người phát huy được sức mạnh bên trong của mỗi cá nhân, đôi khi đến mức độ phi thường. Ý chí của một cộng đồng dân tộc dựa trên sự thống nhất về tư tưởng, có lợi ích chung, tạo thành sức mạnh tinh thần to lớn của dân tộc trong giành, bảo vệ nền độc lập cũng như trong xây dựng, phát triển đất nước.

Còn “tự lực” có nghĩa là dựa vào sức mình để sống và làm việc, tuyệt đối không trông chờ, ỷ lại vào người khác thì “tự cường” có nghĩa là tự làm cho mình mạnh lên, không chịu thua kém người khác, dân tộc khác. Tự lực, tự cường, tự chủ là những phẩm chất tốt đẹp của mỗi con người, mỗi dân tộc vì chứa đựng trong đó lòng tự trọng, ý chí vươn lên và khát vọng khẳng định bản thân.

Khát vọng là những mong muốn tốt đẹp của con người với sự thôi thúc mạnh mẽ từ bên trong để đạt được những mong muốn ấy. Cũng như ý chí, khát vọng có vai trò, ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi người, gắn với mục đích sống, nuôi dưỡng những hoài bão lớn lao trong họ… Khát vọng chung của nhiều cá nhân trong xã hội tạo thành khát vọng xã hội và đến lượt nó, khi đã hình thành, vận động và phát triển, khát vọng xã hội có tác dụng lôi cuốn mọi cá nhân, vượt qua những chần chừ, dao động, tính toán thiệt hơn…, để tham gia thực hiện thành công khát vọng chung của xã hội.

Nói đến khát vọng là nói đến yếu tố tinh thần, là sự mong muốn, khao khát, quyết tâm dồn sức lực, trí tuệ để đạt cho được mục tiêu; khát vọng là nguồn động lực vô biên để thực hiện những nhiệm vụ nặng nề nhằm đạt được ước mơ, không khuất phục trước mọi thử thách. Cụ thể ở vào thời điểm này khát vọng của dân tộc Việt Nam là đưa đất nước đi tới phồn vinh, hùng cường, thịnh vượng, sánh vai với các nước trong khu vực và thế giới.

Khát vọng phát triển đất nước là khát vọng được bồi đắp trên cơ sở phân tích, dự báo, lường đoán kỹ lưỡng những thời cơ; đồng thời, tỉnh táo cân nhắc, tính toán những khó khăn, thách thức bên ngoài, những yếu kém, trở ngại bên trong. Đây vừa là yêu cầu, vừa là lời hiệu triệu của Đảng, của đất nước đối với mỗi người Việt Nam yêu nước.Khát vọng phát triển đất nước” là một trong những nội dung mới được thể hiện trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; là quan điểm cơ bản xuyên suốt, chi phối các nội dung của Nghị quyết Đại hội lần này. Nói về “Khát vọng phát triển đất nước” thì đây chính là kết tinh nguyện vọng của dân tộc ta từ thành từ hàng nghìn năm nay.Nhưng trong thời điểm này, chúng ta vừa có khát vọng vừa có thực tiễn rất sinh động và thuyết phục để đưa đất nước đi lên.

Những thành tựu và bài học kinh nghiệm của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hơn 35 năm qua một lần nữa khẳng định vai trò quan trọng của ý chí, khát vọng phát triển đất nước trong toàn dân tộc. Bài học kinh nghiệm quý giá nhất của công cuộc đổi mới là dựa vào sức dân, phát huy tinh thần và ý chí khát vọng của nhân dân trong chiến tranh cách mạng vào xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường hòa bình. Kết quả của công cuộc đổi mới không chỉ thể hiện bằng những thành tựu về kinh tế, xã hội, mà còn là bài học về phát huy ý chí, khát vọng phát triển, xây dựng đất nước ta phồn vinh, hạnh phúc, để “sánh vai với các cường quốc năm châu” như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2. Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ý chí tự lực tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Vấn đề độc lập cho dân tộc và khát vọng tự do cho nhân dân là xuất phát điểm, là nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, được nuôi dưỡng bởi những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, có sự tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại.

Ý chí tự lực, tự cường và khát vọng về quyền sống chân chính của dân tộc đã bồi đắp tư tưởng, sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và lan tỏa trong mọi giai tầng xã hội Việt Nam. Nói cách khác, chính chủ nghĩa yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước “đàng hoàng”, “to đẹp” đã đưa Người đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, đặt nền móng cho sự phát triển tư tưởng mác-xít ở Việt Nam, tạo ra những điều kiện căn bản, tiên quyết đưa đến những thành công của cách mạng nước nhà.

2.1. Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ý chí tự lực tự cường

Thứ nhất, ý chí tự lực, tự cường là không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài, có quan điểm độc lập trong quan hệ quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: nhân tố mang tính quyết định của cách mạng giải phóng dân tộc chính là sức mạnh của toàn dân tộc. Cách mạng ở các nước thuộc địa (trong đó có Việt Nam) hoàn toàn có thể chủ động giành thắng lợi, không phụ thuộc việc cách mạng ở chính quốc có thắng lợi hay không.

Thứ hai, ý chí tự lực, tự cường là phải nhận thức rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng: Nêu cao tinh thần đem sức ta mà tự giải phóng cho tanhưng phải củng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước bạn, nhân dân Pháp, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới”.

Thứ ba, ý chí tự lực, tự cường là sự chủ động, chuẩn bị mọi mặt các điều kiện của cách mạng.

Thứ tư, ý chí tự lực, tự cường là đặc biệt chú trọng phát huy vai trò, sức mạnh của nhân dân: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Muốn vậy, quần chúng nhân dân phải được vận động, rèn luyện và tổ chức nhằm huy động, tập hợp, phát huy cao nhất vai trò, sức mạnh của mọi lực lượng quần chúng trên cùng một mặt trận, biến thành sức mạnh của quần chúng thành sức mạnh cách mạng.

Thứ năm, ý chí tự lực, tự cường là quyết tâm bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân tộc.

2.2. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Thứ nhất, xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, cường thịnh, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài: từ những ngày đầu đấu tranh cách mạng đến tận trước lúc đi xa, Bác luôn coi trọng nhân tài, mong muốn xây dựng đất nước hùng cường: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

Thứ hai, thực hiện khát vọng đất nước giàu mạnh, cường thịnh trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng chế độ mới, mưu cầu hạnh phúc, ấm no cho nhân dân.

Thứ ba, xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, thực hiện một cách có kế hoạch với sự đồng lòng của Chính phủ và người dân.

Thứ tư, phát huy tối đa nội lực dân tộc, tranh thủ ngoại lực, có chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài.

Thứ năm, luôn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn để đưa ra những quan điểm, chủ trương phù hợp; không giáo điều, máy móc trong học tập kinh nghiệm của nước khác

Có thể khẳng định, những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị chỉ đạo thực tiễn và nghiên cứu lý luận về sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo con đường của chủ nghĩa xã hội, trở thành cơ sở, nền tảng tư tưởng đặc biệt quan trọng để Đảng đổi mới tư duy lý luận, nắm bắt thực tiễn, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, hoạch định đường lối đổi mới tại Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới trong các giai đoạn cách mạng để Việt Nam có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.

Ý chí, khát vọng độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân, hùng cường cho dân tộc và tấm gương mẫu mực suốt đời phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là động lực, tư tưởng soi đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, vì một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.

3. Tỉnh Lạng Sơn học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Lạng Sơn - một vùng đất đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, là tỉnh miền núi biên giới có 231,74 km đường biên, có cửa khẩu quốc tế và quốc gia, cửa ngõ giao lưu kinh tế và văn hóa với nước láng giềng Trung Quốc. Đây là những nền tảng cơ bản tạo nên sự đa dạng, phong phú về văn hoá của tỉnh Lạng Sơn. Từ hàng nghìn năm, bằng ý chí độc lập tự cường dân tộc, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã phát huy, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, hòa nhập với cộng đồng các dân tộc Việt Nam. 

Bước vào thời kỳ đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với sự đoàn kết thống nhất, phấn đấu nỗ lực của cả hệ thống chính trị, Ðảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn đã nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn, chủ động, sáng tạo vươn lên đưa Lạng Sơn từ một tỉnh miền núi, kinh tế chậm phát triển, trình độ dân trí thấp, đời sống của Nhân dân các dân tộc còn nhiều khó khăn, đến nay đã trở thành một tỉnh có bước phát triển khá toàn diện trên các lĩnh vực.

Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch tích cực, từng bước khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của tỉnh để phát triển; Năm 2021, thu ngân sách đạt được những kết quả tích cực (lần đầu tiên thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt trên 10.600 tỷ đồng, tăng 48% so với cùng kỳ 2020); GRDP bình quân đầu người đạt 46,9 triệu đồng (Tốc độ tăng trưởng GRDP năm 2021 Lạng Sơn xếp thứ 15/63 tỉnh, thành phố trong cả nước; thứ 3/14 tỉnh, thành phố (6,67%) khu vực Trung du, miền núi phía Bắc). Sản xuất nông, lâm nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển có nhiều khởi sắc, hình thành nhiều vùng sản xuất mới hiệu quả; chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới có chuyển biến tích cực, đến nay, toàn tỉnh đã có 74 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 05 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, số tiêu chí nông thôn mới bình quân toàn tỉnh đạt 13,5 - 14 tiêu chí/xã; mỗi huyện công nhận được từ 2-3 khu dân cư kiểu mẫu. Kinh tế cửa khẩu tiếp tục phát triển. Có gần 3.000 doanh nghiệp của cả nước thường xuyên tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh, Trong năm, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua địa bàn ước thực hiện 4.270 triệu USD, đạt 138,6% kế hoạch, tăng 52% so với cùng kỳ.Hàng xuất khẩu địa phương 130 triệu USD, đạt 100% kế hoạch, tăng 8,3%. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước được đầu tư xây dựng, tỷ lệ xã có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông hóa đạt 90,6%; tỷ lệ thôn có đường ô tô đến trung tâm thôn được cứng hóa đạt 69,9%,[1] đã hoàn thành đưa vào sử dụng nhiều công trình, dự án có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân; bộ mặt đô thị và nông thôn có nhiều khởi sắc. Hoạt động đối ngoại ngày càng mở rộng, có hiệu quả, năng lực hội nhập quốc tế được nâng lên.

Các công trình giao thông trọng điểm tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh của địa phương và cả vùng Đông Bắc cũng được tỉnh Lạng Sơn hết sức chú trọng. Lạng Sơn đang nỗ lực huy động mọi nguồn lực đẩy nhanh tiến độ dự án thành phần 2, đoạn Hữu Nghị - Chi Lăng thuộc dự án cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn; thực hiện giải phóng mặt bằng dự án tuyến cao tốc Đồng Đăng (tỉnh Lạng Sơn) - Trà Lĩnh (tỉnh Cao Bằng)… Đẩy mạnh việc đầu tư nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 4B nối Lạng Sơn-Quảng Ninh, thành phố Hải Phòng và các tỉnh, thành phố khác để kết nối liên vùng. Việc đầu tư kết nối hạ tầng giao thông đồng bộ là cơ sở để Lạng Sơn "hóa giải" những khó khăn về địa lý, rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế, đưa Lạng Sơn bứt phá trong những năm tiếp theo.

Song song với phát triển kinh tế, lĩnh vực văn hoá – xã hội, chất lượng giáo dục và đào tạo có nhiều tiến bộ rõ nét, công tác quản lý giáo dục có nhiều đổi mới, đến năm 2021, toàn tỉnh có 252/694 trường đạt chuẩn quốc gia. Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ Nhân dân được chăm lo, đến nay, đã có 172/200 xã đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã, đạt 86%; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 86,9%; cập nhật thông tin quản lý sức khỏe trên phần mềm hồ sơ sức khỏe điện tử được 99% dân số, có 11 bác sỹ và 30,7 giường bệnh trên 1 vạn dân; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 98%. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá gắn với cuộc vận động xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh phát triển sâu rộng, các thiết chế văn hóa ở cơ sở được quan tâm đầu tư, năm 2021 có 77% hộ đạt danh hiệu gia đình văn hóa, 78% thôn, bản, khố phố đạt danh hiệu văn hóa. Các mục tiêu giảm nghèo, tạo việc làm được thực hiện quyết liệt; tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 5,89% năm 2021. Phong trào đền ơn đáp nghĩa, công tác bảo đảm an sinh xã hội, chính sách xã hội đối với người có công, chính sách về dân tộc, tôn giáo được thực hiện tốt. Đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân các dân tộc trong tỉnh, nhất là đồng bào vùng cao, vùng biên giới ngày càng được cải thiện. Quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, tội phạm được đẩy mạnh.

Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được tăng cường, khối đại đoàn kết các dân tộc được củng cố vững chắc.Tiếp tục thực hiện tốt công tác chính trị tư tưởng, kịp thời nắm bắt tình hình tư tưởng, định hướng thông tin và dư luận xã hội, tạo sự thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong Nhân dân.Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đảng viên tiếp tục được nâng cao. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cấp uỷ, chính quyền quyết liệt hơn, tạo được sự lan toả để tổ chức triển khai thực hiện ở các cấp, các ngành; kỷ luật, kỷ cương hành chính được tăng cường, dân chủ ở cơ sở được mở rộng và phát huy. Phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là bí thư cấp ủy, thủ trưởng cơ quan, đơn vị về đạo đức, lối sống, tác phong công tác. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, phát huy vai trò của từng tổ chức và các tầng lớp Nhân dân trong giám sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Hệ thống chính trị không ngừng củng cố vững mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Trong nhiều năm qua, tỉnh đã luôn quan tâm chú trọng phát triển quan hệ giao lưu hữu nghị, hợp tác với khu tự trị dân tộc Choang,Quảng Tây (Trung Quốc), quan hệ truyền thống hữu nghị, hợp tác giữa hai tỉnh - khu đã không ngừng được tăng cường, mở rộng, đi vào chiều sâu và đem lại nhiều lợi ích thiết thực, đạt được nhiều kết quả quan trọng trên hầu hết các lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực hợp tác kinh tế, thương mại biên giới; đấu nối giao thông đường bộ, mở và nâng cấp cửa khẩu; hợp tác quản lý biên giới, duy trì an ninh, an toàn trật tự, phòng chống tội phạm trên khu vực biên giới; giao thông  - vận tải; khoa học - công nghệ; nông - lâm nghiệp; y tế; giáo dục đào tạo; văn hoá thể thao, du lịch mang lại nhiều lợi ích cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao đời sống nhân dân khu vực biên giới hai bên. Bên cạnh đó, tỉnh tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với các địa phương khác của Trung Quốc, các đối tác Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Australia; các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế; các cơ quan đại diện ngoại giao; các tổ chức quốc tế, khu vực tại Việt Nam và nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài có hoạt động hợp tác triển khai dự án ODA, NGO trên địa bàn tỉnh, tập trung vào lĩnh vực phát triển hạ tầng cơ sở giao thông, nông nghiệp và phát triển nông thôn, y tế, giáo dục, quản lý đất đai, bảo vệ môi trường, hệ sinh thái, phát triển du lịch bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân vùng khó khăn trên địa bàn tỉnh.

Những năm qua, trong bối cảnh thuận lợi, khó khăn và thách thức đan xen, nhất là đại dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng lớn, tác động trực tiếp đến mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội và đời sống mọi mặt của nhân dân, nhưng cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị - xã hội đã bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương, của Chính phủ, đoàn kết, thống nhất, trách nhiệm, quyết tâm cao, chủ động, đổi mới, linh hoạt trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành để đạt được kết quả tích cực trên các lĩnh vực: Lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch COVID-19 hiệu quả, vừa phát triển kinh tế - xã hội, tỷ lệ tiêm phòng trên dân số đạt trên 95%; duy trì được chuỗi liên kết sản xuất, chuỗi cung ứng trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp; hoàn thành cơ bản các chỉ tiêu chủ yếu, mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra

Những thành tựu quan trọng và toàn diện đã đạt được về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh trong thời kỳ đổi mới tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, sức mạnh đoàn kết các dân tộc, tình cảm và trách nhiệm với quê hương, đất nước, ý chí và khát vọng vươn lên và tinh thần lao động cần cù, sáng tạo của đồng bào các dân tộc tỉnh Lạng Sơn trong suốt thời gian qua.

Tiếp nối truyền thống cách mạng vẻ vang của quê hương, mặc dù vẫn đang tiếp tục phải đối mặt với không ít khó khăn thách thức, cả khách quan và chủ quan, Đảng bộ, chính quyền, Nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn đang nỗ lực phấn đấu hoàn thành ở mức cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ bảo đảm sự phát triển toàn diện và vững chắc hơn trong giai đoạn 2020 - 2025, trọng tâm là:

Một là, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn đảng bộ, của từng cấp uỷ, tổ chức đảng không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ; phát huy tốt vai trò nêu gương của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị. Ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, năng lực chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện của chính quyền các cấp.Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, thực hiện tốt vai trò là người đại diện, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên, đa dạng hóa các hình thức tập hợp đoàn viên, hội viên và Nhân dân, hướng về cơ sở; tiếp tục triển khai thực hiện “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”, “Quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”. Tích cực tham mưu cho cấp ủy đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua “Dân vận khéo” ở các cấp, các ngành, sâu rộng, hiệu quả, nhất là trong phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới, trong tuyên truyền, vận động giải phóng mặt bằng. Thông qua hoạt động thực tiễn, biểu dương và nhân rộng các nhân tố mới, điển hình “Dân vận khéo”, gương “người tốt, việc tốt” trên các lĩnh vực.

Hai là, phát huy sức mạnh tổng hợp, huy động tối đa mọi nguồn lực nhằm khai thác và sử dụng hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, đặc biệt là lợi thế vị trí địa lý thuận lợi trong việc hợp tác, giao thương kinh tế với các nước trong khu vực và quốc tế,đẩy mạnh khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của tỉnh: Phát triển mạnh kinh tế cửa khẩu, thương mại, dịch vụ; tập trung phát triển, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị, hạ tầng cụm, khu công nghiệp tại các huyện: Cao Lộc, Hữu Lũng, Chi Lăng và những nơi thuận lợi để thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp trên địa bàn, ưu tiên công nghiệp chế biến, ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực thu hút đầu tư, phát triển mạnh thương mại - dịch vụ, logistics; nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh tế du lịch, đưa du lịch từng bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh; phát triển nông nghiệp hiện đại gắn với xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, trọng tâm là hạ tầng giao thông, đô thị, nông thôn và công nghệ thông tin.Đẩy mạnh liên kết vùng để khai thác có hiệu quả thế mạnh về vị trí địa lý của tỉnh.

Bốn là, thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo, ứng dụng sâu rộng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin; đẩy mạnh xây dựng chính quyền điện tử, chuyển đổi số của tỉnh. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Có cơ chế, chính sách thiết thực, hiệu quả thu hút các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển kinh tế – xã hội.Thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp và hợp tác xã. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Có cơ chế, chính sách thiết thực, hiệu quả thu hút các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, doanh nghiệp, tổ chức quốc tế tham gia đầu tư phát triển kinh tế – xã hội. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong hoạt động khoa học và công nghệ, thực hiện việc chuyển giao công nghệ, đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý khoa học và công nghệ. Tạo nên sự thâm nhập sâu rộng giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, từng bước chuyển từ mục tiêu tăng trưởng vật chất sang mục tiêu vì chất lượng sống toàn diện của con người. Chủ động và tích cực tận dụng thành công cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cho phát triển kinh tế và phát triển xã hội…

Bốn là, phát huy bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp, nâng cao đạo đức xã hội, ý thức pháp luật, xây dựng văn hóa và con người Lạng Sơn phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, có khát vọng vươn lên, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong thời kỳ mới.. Tạo điều kiện và môi trường thuận lợi thúc đẩy giảm nghèo nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, nhất là các khu vực nông thôn, biên giới, vùng đặc biệt khó khăn.

Năm là,chủ động thực hiện hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, Lạng Sơn cần đề ra nhiều chủ trương, chính sách, kế hoạch dài hạn, trung hạn, hàng năm về hội nhập quốc tế và đối ngoại đồng bộ, toàn diện trên các phương diện đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân và trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng, quản lý thống nhất hoạt động đối ngoại trên địa bàn tỉnh, đồng thời tăng cường chỉ đạo các cơ quan, ban, ngành, huyện, thành phố triển khai nhiều giải pháp đổi mới nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại của tỉnh. Những công tác cụ thể bao gồm: đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm thúc đẩy xuất khẩu, thu hút có chọn lọc nguồn vốn FDI, tranh thủ nguồn vốn ODA và NGO; khai thác hiệu quả hợp tác cấp địa phương với các đối tác, doanh nghiệp nước ngoài, qua đó mở rộng thị trường, tranh thủ các nguồn lực về vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý, quản trị địa phương. Tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xây dựng môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác, ổn định khu vực biên giới để phát triển và bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa.

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay. Tự hào với truyền thống quê hương, phát huy phát huy tiềm năng, thế mạnh chủ động nắm bắt thời cơ, phấn đấu nhiều hơn nữa, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thách thức, khắc phục những hạn chế, yếu kém, tập trung xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn đã và đang quyết tâm đoàn kết thống nhất, đổi mới, chủ động, sáng tạo, phát huy dân chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm có ý chí, khát vọng vươn lên, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp, Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, xây dựng Lạng Sơn ngày càng phát triển, giàu đẹp, văn minh./.

ThS. Nguyễn Văn Hiệp

GV. Khoa Xây dựng Đảng

 

 

[1]. Tỉnh ủy Lạng Sơn, Báo cáo Số 159-BC/TU, ngày 09/12/2021vềKết quả công tác năm 2021, phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ năm 2022