Skip to main content
x
9 June 2022

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng - người đồng chí gần gũi, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Hồ Chí Minh đã làm gương mẫu để xây dựng Đảng. Tấm gương của lãnh tụ được sự hưởng ứng tự nguyện và nhiệt tình của toàn Đảng, đã tạo nên khuôn phép chặt chẽ và thiêng liêng, để lại truyền thống tốt đẹp về Đảng và sự lãnh đạo của Đảng”. Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ ngày thành lập Đảng và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

1. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là quy luật phát triển của Đảng Cộng sản cầm quyền

Năm 1921, V.I.Lênin đã đặt vấn đề phải thanh đảng nhằm đấu tranh để giữ cho Đảng không đi chệch con đường cách mạng, để Đảng xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp cách mạng và của quần chúng cần lao. Sự trong sạch và vững mạnh của Đảng bắt buộc phải: “(1) Tống cổ ngay bọn men-sê-vích ra khỏi Đảng, đối với những người men-sê-vích tham gia Đảng từ sau Cách mạng tháng Mười thì chỉ có thể lưu lại nhiều lắm là 1%. Phải thẩm tra từng người trong số những người được lưu lại đó. Vì bọn chúng chỉ là những tên cơ hội khôn khéo thích ứng chui vào trào lưu chính trị của giai cấp công nhân, chứ không thật thà đi cùng đường với những người cộng sản, nó thù ghét chủ nghĩa xã hội và luôn luôn sẵn sàng đứng vào hàng ngũ kẻ thù. (2) Phải gạt ra khỏi Đảng những kẻ làm ô danh Đảng, những kẻ lợi dụng chức quyền để ăn cắp của công, làm giàu bất chính, ăn chơi sa đoạ. Bọn họ thực chất là những tên lưu manh chính trị, phi nhân tính, không những không thể để cho nó đội lốt cộng sản mà còn phải trừng trị trước pháp luật một cách nghiêm khắc. (3) Phải đưa ra khỏi Đảng những phần tử xa rời quần chúng, những bọn “làm quan”, những kẻ bị quan liêu hoá. Bọn người này si mê quyền lực, hám danh vọng, độc đoán, chuyên quyền, dối Đảng, dối trên, lừa mị cấp dưới và nhân dân. Bọn quan liêu hoá là con dao cắt đứt mối liên hệ máu thịt giữa Đảng và Nhân dân, làm cho dân xa Đảng, Đảng mất dần quần chúng, vì thế không thể để lại chúng trong hàng ngũ Đảng, cần phải đưa ra khỏi Đảng những kẻ gian giảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu hoá, không trung thực, nhu nhược và những người men-sê-vích tuy “bề ngoài” đã được phủ một lớp sơn mới nhưng trong tâm hồn thì vẫn là men-sê-vích[1]

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng phải giải quyết nhiều vấn đề phức tạp, không thể nắm bắt, nhận thức đầy đủ và sâu sắc ngay được mới hằng ngày, hằng giờ nảy sinh trong xã hội, vì vậy không thể tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm. Ph.Ănggen khẳng định: “Giai cấp vô sản, cũng như tất cả các đảng khác, sẽ học tập nhanh nhất qua những sai lầm bản thân, những sai lầm này không ai có thể tránh khỏi cho họ được[2]. V.I.Lênin cũng từng chỉ rõ: Không có và không thể có những người không phạm sai lầm.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương trước hết phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Người chỉ rõ, Đảng sống trong xã hội, là một bộ phận hợp thành cơ cấu của xã hội. Tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên ở các cấp, giữ các chức vụ đều chịu ảnh hưởng, tác động của môi trường, các quan hệ xã hội, cả cái tốt và cái xấu, cái tích cực, tiến bộ và cái tiêu cực, lạc hậu. Do đó, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện. Đảng phải thường xuyên chú ý đến việc chỉnh đốn. Người khẳng định: “Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm”[3]. Chúng ta không sợ có sai lầm, khuyết điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng sửa chữa khuyết điểm. “Một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế mới là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chn, chân chính”[4]. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh trên bình diện phát triển cá nhân, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trở thành nhu cầu tự hoàn thiện, nhu cầu tự làm trong sạch nhân cách của mỗi cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng càng phải tiến hành thường xuyên hơn. Người chỉ rõ: Quyền lực có tính chất hai mặt. Một mặt, quyền lực có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử dụng đúng. Mặt khác, quyền lực cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền lực bị thoái hóa, biến chất, biến quyền lực của nhân dân thành đặc quyền của cá nhân…

Từ khi ra đời cho đến nay không có thời kỳ nào mà Đảng ta không quan tâm đến xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ngay từ khi ra đời Đảng lãnh cao trào 1930-1931, 1936-1939 nhưng do thực dân đã khủng bố tàn bạo, trong Đảng đã xuất hiện một bộ phận đảng viên không chịu đựng được sự tra tấn của kẻ thù, nên đã khai báo các cơ sở cách mạng của Đảng làm cho hệ thống tổ chức, bộ máy Đảng bị đánh phá hoại gây tổn thất to lớn cho Đảng. Đặc biệt, trong thời kỳ Xô viết Nghệ Tĩnh, phát hiện sai sót của Xứ ủy Trung kỳ ra chủ trương “Thanh trừ trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận r” Trung ương Đảng đã có chỉ thị phê phán nghiêm khắc. Lúc bấy giờ ra đời cuốn sách kinh điển đầu tiên nhất về chỉnh đốn Đảng là cuốn sách “Tự chỉ trích” của tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ viết năm 1939, cuốn sách đã chỉ ra những sai lầm khuyết điểm của Đảng và một số ý kiến không đúng với chủ trương của Đảng, đồng thời hướng dẫn cách tự phê bình và phê bình trong Đảng.

Năm 1945 là thời kỳ có chính quyền, thì vấn đề chỉnh đốn Đảng được đặt ra hơn bao giờ hết, trong Đảng có một bộ phận lên mặt quan cách mạng, hách dịch cửa quyền chẳng khác gì địa chủ phong kiến. Bác Hồ viết 2 bức thư, một bức thư gửi các tỉnh, huyện, làng miền Bắc, một bức thư gửi tỉnh, huyện, làng miền Nam nhưng chưa có những chuyển biến tích cực. Chủ tịch Hồ Chí Minh phải viết cuốn sách “Sửa đổi lối làm việc” được coi là văn kiện thứ hai về chỉnh đốn Đảng (năm 1947) và tổ chức sinh hoạt chính trị sâu rộng quy mô lớn trong toàn Đảng. Sau đó các lớp chỉnh huấn trong Đảng được triển khai rộng khắp trên toàn quốc. Ngày 11/5/1952 Bác đã phát biểu tại lớp chỉnh huấn Đảng Bác nêu lý do phải chính huấn Đảng là “nâng cao tư tưởng và trình độ chính trị của đảng viên và cán bộ, làm cho đảng viên và cán bộ theo đúng quan điểm và lập trường vô sản”[5]; đồng thời xác định nhiệm vụ trọng tâm của đợt chỉnh huấn Đảng là: Chỉnh Đảng phải có trọng tâm; chỉnh đốn tư tưởng rồi mới chỉnh đốn tổ chức; Chỉnh huấn cán bộ rồi mới chỉnh huấn toàn thể đảng viên.

Trong Di chúc của Người Bác yêu cầu: Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đội viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ mà Đảng giao phó, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì công việc dù to đến mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi.

Sau ngày đất nước thống nhất cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng tiếp tục được thực hiện. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) khẳng định: “Chỉnh đốn tổ chức, thi hành những biện pháp có hiệu lực trừ diệt các tệ nn xã hội, cửa quyền, loại bỏ và nghiêm trị những phần tử biến chất lợi dụng danh nghĩa Đảng và chính quyền để đục khoét của nhân dân, áp bức quần chúng”.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ đổi mới phải gắn liền với chỉnh đốn đảng. “Để đảm đương được vai trò lãnh đạo Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo”. Đây là lần đầu tiên Đảng tổng kết về xây dựng chỉnh đốn Đảng với việc đưa trọn vẹn 3 nội dung: (1) Không chỉ đổi mới mà còn phải gắn với chỉnh đốn; (2) Không ai khác chỉnh bản thân Đảng phải tự đổi mới; (3) Tự chỉnh đốn do yêu cầu nội tại của đảng cầm quyền.

Tháng 6-1992, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương  khóa VII đề ra Nghị quyết về "Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng". Mục tiêu của đổi mới, chỉnh đốn Đảng là nhằm “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phù hợp với yêu cầu khách quan của cách mạng trong tình hình mới, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo đảm thực hiện có kết quả các nhiệm vụ chính trị do Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế, làm cho dân giàu, nước mạnh, giữ vững ổn định chính trị”[6].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) Đảng xác định: Trong giai đoạn hiện nay Đảng lãnh đạo kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, quyết định mở “Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng”. Nghị quyết Trung ương 6 lần 2 khóa VIII đã chính thức triển khai Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần XI của Đảng (năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Trong lãnh đạo Đảng có lúc cũng phạm phải sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, tự chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên”[7].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) nêu 6 nhiệm vụ trọng tâm trong đó nhiệm vụ xây dựng Đảng được đặt lên hàng đầu: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ[8].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (măm 2021), đã phát triển thành tố “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” của Đại hội XII thành “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng”; Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã ban hành Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Từ đó có thể khẳng định đổi mới, chỉnh đốn Đảng là một quy luật tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản cầm quyền.

2. Nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh

2.1. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng

Đảng dựa vào lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin để xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng, lý luận. Việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin phải luôn phù hợp với từng đối tượng, phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể của nước ta trong từng thời kỳ.

Mở đầu tác phẩm Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh đã đưa luận điểm nổi tiếng của V. Lê-nin: “Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động... Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong” Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc” (10-1947), Người viết: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công tác thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Như vậy, khẳng định Cách mạng Việt Nam “trước hết phải có Đảng cách mệnh”, Người còn muốn nhắc đến một điều đặc biệt quan trọng: dẫn đường cho mọi hoạt động của cách mạng đều cần thiết phải có một học thuyết, một chủ nghĩa cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Có lý luận soi đường thì quần chúng hành động mới đúng đắn, mới phát hiện được tài năng và lực lượng vô cùng tận của mình”. Người chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”Nhưng, Người cũng phát hiện ra rằng “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”

Có chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, soi đường, dẫn lối, Đảng đã đạt được những mục tiêu nhất định, đã lãnh đạo được giai cấp công nhân thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình, đưa dân tộc ta vượt qua những khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

2.2. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tổ chức

Về hệ thống tổ chức của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức. Trong hệ thống tổ chức Đảng, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của chi bộ. Chi bộ là tổ chức hạt nhân, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng; là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi giám sát đảng viên. Chi bộ có vai trò quan trọng trong việc gắn kết giữa Đảng với quần chúng nhân dân.

Theo Hồ Chí Minh, Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Trong Đảng, bất kỳ cấp trên hoặc cấp dưới, đảng viên cũ hoặc đảng viên mới, đều nhất định phải giữ kỷ luật của giai cấp vô sản. Đây là nguyên tắc rường cột, quan trọng nhất để xây dựng Đảng chặt chẽ, vững chắc, phát huy được sức mạnh tổng hợp trong toàn Đảng.

Về công tác cán bộ, Người luôn quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của người cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Theo Người: Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt ra chính sách đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng.Trên thực tế, ở đâu có cán bộ tốt thì ở đó có phong trào tốt và ngược lại thì phong trào sẽ yếu và đi xuống, thậm chí là tạo nên nhiều hệ lụy cho cách mạng.

2.3. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng về đạo đức

Đảng là đạo đức, là văn minh, nhờ đó Đảng mới trong sạch, vững mạnh. Trong 12 điều xây dựng Đảng chân chính cách mạng, Người nhấn mạnh, Đảng là một tổ chức cách mạng chứ không phải tổ chức để “làm quan phát tài”. Không như vậy, Đảng sẽ rơi vào thoái hóa, biến chất, tha hóa, xa dân, tự đánh mất sức mạnh tự bảo vệ. Sức mạnh ấy từ dân mà ra, do dân gây dựng, phát triển. Người cho rằng: Xây dựng Đảng về đạo đức là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện, giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, đặc biệt là giữ gìn đạo đức cách mạng. Cán bộ, đảng viên không phải là thần thánh. Họ là con người, ai cũng có hai mặt tốt - xấu, thiện - ác thường xuyên đấu tranh với nhau. Trong điều kiện môi trường tốt, nếu cán bộ, đảng viên nỗ lực tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện thì mặt tốt, mặt thiện sẽ nổi lên, đẩy lùi mặt ác, mặt xấu và ngược lại.

Xây dựng Đảng và chỉnh đốn Đảng là hai mặt của một quá trình thống nhất, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Do vậy, với Người, xây dựng và chỉnh đốn Đảng không chỉ là nhiệm vụ then chốt, mang tầm chiến lược, mà còn là công việc thường xuyên của Đảng trong vai trò lãnh đạo cách mạng, bởi Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Trên thực tế, ở đâu, muốn hoàn thành tốt mọi việc, thì ở đó, tổ chức của Đảng phải trong sạch, vững mạnh, toàn thể cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương chính sách của Đảng.

Trong giai đoạn cách mạng mới, bên cạnh những thời cơ mới, vận hội mới, dân tộc ta cũng đứng trước không ít những khó khăn, thách thức. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam càng phải được khẳng định, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cần được nâng cao hơn bao giờ hết để ứng với các yêu cầu, nhiệm vụ mà lịch sử dân tộc giao phó. Đảng cần xác định xây dựng, chỉnh đốn Đảng làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, trong đó, quán triệt, tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, sẽ góp phần làm cho Đảng ta trong sạch, vững mạnh, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền.

3. Đảng bộ Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tỉnh ủy, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và thường xuyên của của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Có chức năng tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của hệ thống chính trị cấp cơ sở; cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh về lý luận chính trị; chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiến thức và chuyên môn, nghiệp vụ về công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội; kiến thức về một số lĩnh vực khác; tham gia tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị của tỉnh.

Trong những năm qua Đảng bộ Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ đã vận dụng linh hoạt sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thực hiện nghiêm túc các quy định của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nội dung liên quan đến xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ủy đã ban hành các nghị quyết, chương trình, kế hoạch liên quan đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng như: Nghị quyết số 107-NQ/ĐU, ngày 30-9-2016 về “Xây dựng văn hóa công sở ở Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ”; Nghị quyết 352-NQ/ĐU, ngày 11-02-2019 về “Công tác cán bộ”; Quyết định số 112/QĐ/ĐU, ngày 30-11-2021, về Ban hành Quy định chuẩn mực đạo đức cán bộ, đảng viên, viên chức Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ… Hằng năm Đảng ủy đều ban hành kế hoạch học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; kế hoạch khắc phục những hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm, đánh giá chất lượng tổ chức đảng và đảng viên; chương trình kế hoạch kiểm tra, giám sát của Đảng ủy… Thông qua công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nghiên cứu, quán triệt, học tập các chỉ thị, nghị quyết, quy định, kết luận của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã góp phần ngăn chặn được sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn đảng bộ; nhận thức của cán bộ, đảng viên về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị từng bước được nâng lên.

Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có một số ít cán bộ, đảng viên chưa thật sự gương mẫu trong thực hiện tự phê bình và phê bình. Vẫn còn hiện tượng nói chưa đi đôi với làm, nói nhiều làm ít…Để tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực hiện có hiệu quả Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021 Kết luận Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá” cần thực hiện tốt một số giải pháp:

Thứ nhất, đổi mới, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng nhằm nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng về xây dựng, chnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, đặc biệt xây dựng Đảng về đạo đức, tăng cường trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý; gắn với việc thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh".

Thứ hai, đảng ủy lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các quy định của Đảng về chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng trở thành nền nếp, thường xuyên trong sinh hoạt chi bộ, đảng bộ; đồng thời cần chống khuynh hướng cực đoan trong tự phê bình và phê bình.

Thứ ba, đảng ủy, lãnh đạo nhà trường tạo môi trường, điều kiện khuyến khích, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo; ban hành quy định bảo vệ cán bộ, giảng viên dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, vì sự phát triển của nhà trường;

Thứ tư, đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo sát với tình hình thực tế của Đảng bộ, nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực tế; thực hiện chế độ chính sách, nâng cao thu nhập cho người lao động.

Thứ năm, xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên có phẩm chất đạo đức, có trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho tỉnh, tiến tới xây dựng Trường Chính trị Hoàng Văn Thụ đạt chuẩn theo Quy định số 11-QĐ/TW, ngày 19-5-20121 của Ban Bí thư./.

ThS. Hoàng Thị Quyên 

Khoa Lý luận cơ sở

 

[1] V.I.Lê-nin, Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978, tr.154;

[2] C.Mác và Ph.Ănggen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1997, tập 37, tr.450;

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tập 5, tr. 323;

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 tập 5, tr. 261;

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.5,  tr. 415;

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, (6-1992);

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb chính trị quốc gia-sự thật, Hà Nội- 2011. Tr. 64;

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn Phòng Trung ương Đảng, Hà Nội- 2016. Tr. 217.