Skip to main content
x
12 December 2021

Cách mạng Tháng Tám năm1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945), là mốc son hào hùng đánh dấu cho sự ra đời của một nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; đưa địa vị toàn thể Nhân dân Việt Nam từ nô lệ trở thành người làm chủ thực sự của đất nước. Sức sống, tinh thần và những giá trị của thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Quốc khánh 2 tháng 9 vẫn còn in đậm trong mỗi bước đi, mỗi chặng đường phát triển của đất nước và trở thành biểu tượng của khát vọng độc lập, tự do, hòa bình. Ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân xâm lược Việt Nam năm 1858, mở đầu bằng cuộc tấn công vào Đà Nẵng, phát huy tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc, không cam chịu làm nô lệ, quần chúng nhân dân đã đứng lên đấu tranh chống lại sự bóc lột của thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Đó cũng chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đấu tranh giành độc lập, hòa bình cho dân tộc. Trong bối cảnh ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930) đã kịp thời chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua nhiều thử thách, khó khăn để đạt được những thắng lợi to lớn. Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng chính­­ là cội nguồn hun đúc lòng tin và chí khí cho toàn dân đi theo con đường cách mạng. Đáp lại lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với khí thế bão táp cách mạng. Chỉ trong vòng 15 ngày, (từ 14 đến 18/9/1945) cuộc Tổng khởi nghĩa đã nổ ra thắng lợi hoàn toàn trong cả nước. Lần đầu tiên trong lịch sử Nhân dân Việt Nam được bước lên vũ đài chính trị, trở thành người làm chủ thật sự của đất nước.

Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, trong thời khắc thiêng liêng của lịch sử dân tộc, trước quốc dân đồng bào và nhân dân thế giới Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”- đánh dấu cho sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây chính là thành quả tất yếu đối với một dân tộc vốn yêu chuộng hòa bình. Từ trong sâu thẳm lý trí của mỗi người dân, một khát vọng độc lập, tự do đã được hun đúc cùng với chiều dài của lịch sử dân tộc, độ dài của lịch sử càng lớn thì tinh thần và khát vọng ấy càng mãnh liệt. Điều này được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc ấy phải được độc lập”[1] Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đó không phải sự ngẫu nhiên mà đó là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh với khát vọng độc lập, tự do và hòa bình dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo đó, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2 tháng 9 để lại những di sản về lý luận, bài học vô cùng quý giá về phương pháp luận cần vận dụng, phát huy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

1

Đó là bài học trong mọi hoàn cảnh, phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên trì thực hiện đường lối đổi mới. Là một trong những cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh, được thể hiện trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, giải quyết một cách đúng đắn và xác đáng mối quan hệ chủ quyền quốc gia và lợi ích của nhân dân, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội, giữa mục tiêu trước mắt và định hướng phát triển lâu dài, phù hợp với dòng chảy của lịch sử nhân loại và đặc điểm Việt Nam.

Đó là bài học phải củng cố và tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc: “sẵn sàng giơ tay đón tiếp những cá nhân hay đoàn thể, không cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia, miễn thành thực muốn đánh đuổi Nhật, Pháp để dựng lên một nước Việt Nam tự do và độc lập”[2]. Tất cả các lực lượng được tập hợp và đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất do liên minh công, nông, trí thức làm nòng cốt, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiếp theo, là bài học phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường kết tinh trong luận điểm nổi tiếng của lãnh tụ Hồ Chí Minh “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” được áp dụng và thực thi triệt để trong Cách mạng Tháng Tám.

Đó là bài học Cách mạng muốn thành công thì không chỉ có vai trò lãnh đạo của Đảng, một yếu tố đảm bảo xuyên suốt cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng được rút ra từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đó là: biết phát huy và tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân. Thực tiễn đã chứng minh quần chúng nhân dân chính là chủ thể của các cuộc cách mạng, chủ thể ấy mạnh hay yếu là do lực lượng lãnh đạo có tin tưởng và biết phát huy hay không. Chính vì thế phải tập trung vào việc xây dựng lực lượng lãnh đạo cách mạng phải thật sự vững mạnh để thuyết phục và lãnh đạo cho được dân chúng.

Hào khí của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Quốc khánh 2 Tháng 9 chính là cội nguồn sức mạnh để cả dân tộc phát huy tinh thần chủ động, tự lực, tự cường. Trong bối cảnh quốc tế có nhiều thời cơ nhưng cũng không ít thách thức đặt ra, nhưng sự đoàn kết giữa Đảng - Nhân dân chính là mạch nguồn sức mạnh giúp dân tộc Việt Nam vững bước trên con đường đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 02 tháng 9 đã hiện thực hóa khát vọng ngàn đời của dân tộc là hệ giá trị vô giá, trở thành lẽ sống, lý tưởng phấn đấu, hy sinh mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và Nhân dân kiên định thực hiện dưới ánh sáng của Đảng. Cụ thể hóa thành quả cách mạng, ngày 12-10-1945, Người đã ký sắc lệnh số 49, ghi rõ dòng chữ phía dưới Quốc hiệu nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” là “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”, thể hiện trọng trách lịch sử, lời hứa danh dự trước quốc dân đồng bào của nhà nước mới sẽ đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho người dân sau bao năm chìm đắm trong đêm trường nộ lệ. Vì vậy, “toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”[3]. Sau Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 02 tháng 9 trước âm mưu xâm lược nước ta, cộng thêm sức mạnh của các nước đế quốc, thỏa thuận, ngầm tạo điều kiện thuận lợi để thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai, nền độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân “mong manh trước gió”, vận mệnh dân tộc “như ngàn cân treo sợi tóc”! Hưởng ứng chủ trương kháng chiến của Đảng và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính”, với tinh thần và ý chí “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” chống thực dân Pháp và chân lý sáng ngời “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại, để rồi hơn 30 năm sau, nước nhà hoàn toàn độc lập, nhân dân hoàn toàn tự do, cả nước bước vào thời kỳ xây dựng CNXH. Đây là con đường “duy nhất” mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc thực sự cho nhân dân, “CNXH là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ... Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là CNXH"[4].

Trải qua 76 năm khát vọng đó được Đảng, nhà nước và nhân dân ta kế thừa phát huy trong công cuộc xây dựng CNXH nhất là sau gần 35 năm tiến hành đổi mới, nước ta đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7%/năm, quy mô và tiềm lực của nền kinh tế không ngừng tăng lên; tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển văn hóa và công cuộc xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều kết quả tích cực; Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam dần được cải thiện, hiện đang thuộc nhóm trung bình cao và đứng thứ 117/189 quốc gia (năm 2019); mức sống chung của người dân từng bước được nâng lên... Cùng với đó, quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia trên thế giới; gia nhập và tích cực xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN; tham gia có hiệu quả các liên kết kinh tế khu vực và quốc tế trên nhiều cấp độ...

Khái vọng đó tiếp tục được Đảng và nhân dân ta khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Ngay chủ đề Đại hội, khát vọng phát triển đất nước được khẳng định như một tuyên bố chính trị: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[5].

Các quan điểm chỉ đạo trong tầm nhìn và định hướng phát triển đã nhấn mạnh khát vọng về một đất nước phồn vinh, hạnh phúc: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh...; Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước...; Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam...”. Mục tiêu tổng quát cũng được xác định rõ: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc...”

Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Văn kiện xác định: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước; Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài; phát triển con người toàn diện và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc...khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc...

2

Quan điểm về khát vọng phát triển trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào đường lối của Đảng để xây dựng đất nước trong bối cảnh mới. Điều đó cũng thể hiện một cách tốt nhất quyết tâm thực hiện khát vọng và tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vì một tương lai tốt đẹp của dân tộc: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.

 

                                                               ThS. Trần Văn Tuân

                                                                Khoa Lý luận cơ sở

 


[1]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.557.

[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.461.

[3]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB.CTQG, H.2011, t.4, tr.3, 51.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB.CTQG, H.2011, t 13, tr.438.

[5] ĐCS Việt Nam - Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XIII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2021, tr.57