Skip to main content
x
18 March 2021

Văn Quan là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Lạng Sơn. Diện tích tự nhiên toàn huyện là 54.755,9 ha, đất sản xuất nông nghiệp là 8.694,2 ha, đất lâm nghiệp là 36.759,1 ha. Tổng số hộ của toàn huyện là 13.397 hộ, số nhân khẩu: 54.272 người; tổng số hộ đồng bào dân tộc thiểu số: 13.208 hộ (dân tộc Tày, Nùng chiếm trên 97%); huyện có 17 xã, thị trấn với 154 thôn, khu phố.

Để thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 29-CT/TU ngày 25/4/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thực hiện chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020, hằng năm công tác tuyên truyền, phổ biến quán triệt đến các ban, ngành, đoàn thể chính trị từ huyện đến cơ sở và Nhân dân trên địa bàn huyện thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước v công tác dân tộc, để cho Nhân dân nắm và hiểu được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói gim nghèo, đm bảo an sinh xã hội, củng cố niềm tin của Nhân dân đi với Đng và Nhà nước, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, không truyền đạo trái phép, không gây mất ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, nêu gương những điển hình tiên tiến trên từng lĩnh vực trong đời sống văn hóa xã hội, xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất; xóa bcác hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, bảo tồn và phát huy bản sc văn hóa dân tộc... Sự phối hợp triển khai công tác chiến lược dân tộc giữa các cơ quan, ban, ngành liên quan của huyện được duy trì thường xuyên nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị phối hợp trong công tác tuyên truyền, vận động Nhân dân các dân tộc thực hiện chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về chính sách dân tộc, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân vùng đặc biệt khó khăn góp phần tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Việc chuyển giao, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất được Nhân dân ứng dụng mang lại hiệu quả thiết thực, năng suất, sản lượng lương thực có hạt năm sau cao hơn năm trước, các mô hình sản xuất có hiệu quả được nhân rộng. Trong phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp - thủy sản trong những năm qua có bước phát triển khá, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ngành nông - lâm nghiệp - thủy sản bình quân giai đoạn 2015 - 2020 đạt 8,15%. Chuyển dịch cơ cấu nội ngành đúng hướng, giảm dần trồng trọt tăng chăn nuôi và sản xuất lâm nghiệp, dần khai thác tốt các tiềm năng thế mạnh đất đai, nhân lực lao động. Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là đưa giống mới có năng suất, chất lượng vào sản xuất góp phần tăng năng suất, chất lượng sản phẩm nông, lâm sản; sản lượng lương thực tăng qua các năm, cơ bản tự cân đối lương thực trên địa bàn.

Giai đoạn 2015 - 2020 nguồn vốn Chương trình 135, Chương trình 30a và lồng ghép vốn trái phiếu Chính phủ đầu tư trên địa bàn được 150.927 triệu đồng với 284 công trình. Hàng năm công tác duy tu, bảo dưỡng công trình đường giao thông nông thôn ở các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn sau đầu tư, đường bị hư hỏng nặng, sạt lở đất do thiên tai được duy tu, bảo dưỡng thường xuyên, phục vụ Nhân dân đi lại được dễ dàng. Mạng lưới điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt của Nhân dân được quan tâm đầu tư đến nay đã có trên 97,9% thôn bản được sử dụng điện, mạng lưới điện cơ bản đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất và sinh hoạt của Nhân dân.

Triển khai thực hiện dự án hỗ trợ phát triển sản xuất trong từng năm thực hiện lồng ghép các chương trình để tập huấn, chuyển giao kỹ thuật, hướng dẫn Nhân dân trồng chăm sóc cây trồng, vật nuôi mang lại hiệu quả tạo nguồn thu nhập ổn định để thoát nghèo bền vững. Những hộ nghèo được hưởng lợi từ chương trình thực hiện hỗ trợ đất sản xuất, hỗ trơ nước sinh hoạt phân tán, mua sắm máy nông cụ... đem lại hiệu quả thiết thực.

1

Mô hình nuôi cá lồng hiệu quả của huyện Văn Quan (Ảnh: Tác giả)

Công tác chỉ đạo, điều hành được triển khai đồng bộ từ huyện đến cơ sở, đã góp phần nắm bắt kịp thời tiến độ triển khai và kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện. Công tác đào tạo, tập huấn được ban chỉ đạo của Huyện và Văn phòng Điều phối chương trình xây dựng nông thôn mới của Tỉnh quan tâm, mở được 15 lớp tại huyện và các xã cho cán bộ xã, các thành viên Ban phát triển thôn được trên 2.000 lượt tham dự... Công tác lập quy hoạch được triển khai theo đúng kế hoạch, có 23/23 xã lập quy hoạch chung, trong đó chỉ có 3 xã điểm đã lập quy hoạch chi tiết. Đến hết năm 2019 trên địa bàn toàn huyện có 06 xã đã đạt chuẩn nông thôn mới.

Đến nay, toàn huyện đã củng cố, phát triển hệ thống giáo dục đào tạo hoàn chỉnh các cấp học, bậc học từ giáo dục Mầm non đến Phổ thông trung học, phát triển hệ thống các trường Phổ thông dân tộc bán trú; toàn huyện hiện có 60 trường học, trong đó 20 trường Mầm non, 09 trường Tiểu học, 04 trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học, 7 trường Trung học cơ sở, 10 trường Tiểu học và Trung học cơ sở, 02 trường Phổ thông dân tộc bán trú Trung học cơ sở, 03 trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học và Trung học cơ sở, 01 trường Phổ thông dân tộc nội trú Trung học cơ sở, 01 trường Phổ thông cơ sở, 02 trường Trung học phổ thông, 01  Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên. Đội ngũ cán bộ giáo viên đạt chuẩn 100%, tỷ lệ giáo viên là người dân tộc thiểu số chiếm trên 95%, số còn lại đã công tác tại vùng dân tộc ít nhất 03 năm cơ bản đáp ứng được yêu cầu về chất lượng.

2

Nhân dân tham gia làm đường giao thông trên địa bàn huyện (Ảnh: Tác giả)

Việc thực hiện chính sách miễn, giảm học phí cùng với các chính sách hỗ trợ khác của Chính phủ và của tỉnh Lạng Sơn đã phần nào hỗ trợ học sinh vùng đặc biệt khó khăn, học sinh con hộ nghèo có điều kiện học tập tốt hơn, giảm bớt khó khăn cho gia đình và các em học sinh, từ đó nâng cao tỷ lệ đi học chuyên cần ở các xã vùng khó khăn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của huyện, duy trì đạt Phổ cập giáo dục Mầm non, Phổ cập giáo dục Tiểu học - xóa mù chữ và Phổ cập giáo dục Trung học cơ sở, như: 16.584 học sinh được hỗ trợ chi phí học tập với số tiền là: 12.758.150.000 đồng, 18.143 học sinh được miễn, giảm học phí số tiền là: 3.687.214.000 đồng, 9.152 học sinh được hưởng chế độ bán trú theo Nghị định 116, với số kinh phí đã thực hiện: 7.948.020.000 đồng... Bên cạnh đó, huyện đã tuyển cử được 16 học sinh đi học tại các trường cao đẳng, đại học. Đào tạo nghề cho 2.498 người (đạt 80,4% chỉ tiêu)...

Công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho đồng bào vùng DTTS và miền núi được duy trì thường xuyên. Công tác phòng, chống và kiểm tra giám sát tình hình dịch bệnh trên địa bàn các xã, thị trấn được tăng cường và quan tâm kịp thời nhất là trong thời gian chuyển mùa. Đội ngũ cán bộ y tế từ huyện đến cơ sở luôn được củng cố và đào tạo nâng cao nghiệp vụ đáp ứng với yêu cầu đặt ra, cơ sở vật chất luôn được trang bị để phục vụ khám chữa bệnh, trong những năm qua công tác khám chữa bệnh và điều trị bệnh luôn đạt trên 100% kế hoạch, các dịch bệnh lớn không xảy ra trên địa bàn. Việc cấp, phát thuốc điều trị bệnh cho bệnh nhân có thẻ Bảo hiểm y tế (BHYT) thuộc hộ nghèo và người dân tộc thiểu số sinh sống tại các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn (ĐBKK) được thực hiện tốt; các bà mẹ mang thai và trẻ em đến kỳ được tiêm chủng các loại vacxin theo quy định.

Các nội dung xây dựng các thiết chế văn hoá, thông tin, thể thao xã, thôn đã được quan tâm đầu tư xây dựng và phát triển. Thực hiện phương châm xã hội hoá với sự hỗ trợ của Nhà nước cộng với đóng góp của Nhân dân và kêu gọi đầu tư từ các cá nhân, tổ chức đã góp phần mang lại những kết quả nhất định. Công tác giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa đã được các cấp, các ngành của Huyện quan tâm triển khai thực hiện. Hiện nay, toàn Huyện có 12 di tích đã được các cấp có thẩm quyền xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa.

3

Văn Quan phát huy các lễ hội truyền thống (Ảnh: Tác giả)

Thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” trong vùng đồng bào DTTS trên địa bàn huyện đã có nhiều đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động trên nhiều lĩnh vực đã khẳng định được vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc từng bước đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới hiện nay.

Chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên; công an xã, công an viên thôn bản, các tổ an ninh nhân dân và phong trào tự quản ở cơ sở hoạt động có hiệu quả. Thường xuyên quan tâm chỉ đạo công tác xây dựng địa bàn trong sạch vững mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng an ninh, quốc phòng an ninh với phát triển kinh tế. Công tác phòng ngừa chống tội phạm được tăng cường; giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn qua các năm luôn đảm bảo, chính trị ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế - xã hội phát triển.

Việc củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở vùng DTTS, đã được cấp ủy, chính quyền huyện quan tâm; tăng cường bố trí, biệt phái cán bộ trẻ có năng lực đi cơ sở làm lãnh đạo; hàng năm có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ cơ sở nhằm đảm bảo đáp ứng nhu cầu công việc hiện nay. Phát huy vai trò người có uy tín trong đồng bào DTTS được triển khai thực hiện tốt, thăm hỏi tặng quà, ốm đau, việc hiếu cho người có uy tín được đầy đủ, kịp thời, hàng năm người có uy tín được tham gia tập huấn và tham quan học tập kinh nghiệm do tỉnh tổ chức... Đến nay 100% cán bộ, công chức cấp huyện, trên 90% cán bộ và 95% công chức cấp xã đạt chuẩn về trình độ chuyên môn và lý luận chính trị.

Có thể thấy, trong 05 năm thực hiện Chỉ thị 29-CT/TU ngày 25/4/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, tình hình đồng bào vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện ổn định. Đời sống, an sinh xã hội ổn định, tình hình quốc phòng - an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Các dân tộc chung sống đoàn kết, chấp hành tốt các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đề ra.

Tuy nhiên, công tác tuyên tuyền về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến với Nhân dân còn hạn chế, chưa được đồng bộ, chưa hiệu quả. Một số người dân còn có tư tưởng trông chờ ỷ lại và sự hỗ trợ của Nhà nước. Công tác giảm nghèo chưa bền vững; tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo còn cao, tái nghèo phát sinh. Việc triển khai thực hiện một số chính sách dân tộc trên địa bàn còn chậm, chưa được kịp thời; một số cấp ủy, chính quyền chưa xác định rõ tiềm năng, lợi thế của địa phương do đó một số nguồn vốn hỗ trợ cho đồng bào dân tộc hiệu quả chưa cao. Đời sống của người dân còn nhiều khó khăn nên việc huy động nguồn vốn đối ứng của người dân tham gia thực hiện chương trình, dự án còn hạn chế…

Trong thời gian tới, để thực hiện công tác dân tộc và chính sách dân tộc đến năm 2025 đạt hiệu quả cao hơn, theo chúng tôi huyện Văn Quan cần thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:

 Một là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền trong việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, trọng tâm là nông nghiệp nông thôn, phát huy nội lực, khai thác nguồn tài nguyên đất đai, nhân lực đẩy mạnh phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp, tạo ra nhiều sản phẩm tăng thu nhập trong cộng đồng đồng bào các dân tộc, ổn định đời sống, giảm nghèo nhanh và bền vững.

Hai là, vận dụng và đưa các chính sách dân tộc vào cuộc sống các dân tộc đạt hiệu quả cao nhất, triển khai thực hiện các chương trình, dự án sớm đưa vào khai thác để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, gắn các mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục với các nhiệm vụ mục tiêu xây dựng nông thôn mới. Thực hiện có hiệu quả các mục tiêu dự án các xã đặc biệt khó khăn, triển khai các cơ chế hỗ trợ cho sản xuất tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc có điều kiện phát triển sản xuất, tiếp thu và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất thu được kết quả cao, tăng thu nhập giảm nghèo nhanh và bền vững.

Ba là, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế trên địa bàn, hỗ trợ phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với đặc điểm từng địa phương, phát triển sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm; phát triển hài hòa các lĩnh vực: Sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp; công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; thương mại - dịch vụ… tạo nền kinh tế chung của huyện phát triển ổn định. Ưu tiên nguồn lực đầu tư xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng, lồng ghép các nguồn lực tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng nông nghiệp, nông thôn gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới.

Bốn là, thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu cho phát triển các lĩnh vực xã hội; nâng cao chất lượng dạy và học, tăng cường cơ sở vật chất cho ngành giáo dục, lồng ghép các chính sách với xã hội hóa tạo cơ sở ổn định cho các trường bán trú các xã vùng III; đẩy mạnh xây dựng đạt chuẩn cơ sở vật chất các trường học. Tăng cường công tác khám chữa bệnh cho Nhân dân, quan tâm đầu tư trang thiết bị, con người phục vụ cho công tác khám chữa bệnh cho đồng bào dân tộc tại các xã đặc biệt khó khăn. Quan tâm chỉ đạo xây dựng các thiết chế văn hóa, gắn phong trào luyện tập thể thao với phát triển sân chơi bãi tập tại các thôn bản và sân thể thao các xã; chỉ đạo có hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Năm là, tập trung nguồn lực phục vụ công tác giảm nghèo; tăng cường công tác tuyên truyền, đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc vận dung kiến thức vào đời sống và sản xuất, tạo tăng thu nhập để thoát nghèo nhanh và bền vững. Kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng; triển khai có hiệu quả Phong trào Toàn dân Bảo vệ an ninh Tổ quốc; tiếp tục tăng cường trấn áp tội phạm, các tệ nạn xã hội, đảm bảo an ninh nông thôn và trật tự an toàn xã hội. Quan tâm và coi trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS. Xây dựng lực lượng cốt cán, phát huy vai trò của những người có uy tín trong đồng bào DTTS.

       GVC. Phạm Anh Tuấn

Phó trưởng khoa Xây dựng Đảng