Skip to main content
x
1 April 2015

     Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Khoá 13, kỳ họp lần thứ 7 thông qua vào ngày 19/6/2014, gồm 9 chương, 133 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015. Qua tìm hiểu và nghiên cứu luật Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có một số điểm mới sau đây: về độ tuổi kết hôn, hôn nhân đồng giới tính, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

     1. Về độ tuổi kết hôn:

     Nâng độ tuổi kết hôn của nam và nữ cụ thể là theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, thì độ tuổi kết hôn của nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên là đủ tuổi kết hôn. Theo quy định này thì nam đã bước sang tuổi hai mươi, nữ đã bước sang tuổi mười tám mà kết hôn là không vi phạm điều kiện về tuổi kết hôn. Tuy nhiên, với quy định điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, thì độ tuổi kết hôn của nam và nữ sẽ được nâng lên và được tính theo tuổi tròn, bắt buộc nam phải từ đủ hai mươi tuổi trở lên, nữ phải từ đủ mười tám tuổi trở lên mới được kết hôn. Cách tính tuổi tròn như sau: Anh Nguyễn Văn B sinh ngày 01 tháng 8 năm 1995 thì đến ngày oi tháng 8 năm 2015 mới được kết hôn. Luật Hôn Nhân và Gia đình năm 2014 sửa đổi quy định về cách xác định độ tuổi kết hôn là tính tuổi tròn (đủ 20 tuổi đối  với nam và đủ 18 đối với nữ) là phù hợp với quy định của hệ thống pháp luật Dân Sự, Hình sự, Hành chính hiện hành.

     2. Không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính

     Luật HNGĐ 2014 bỏ quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính” nhưng quy định cụ thể “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính Khoản 2 Điều 8”. Như vậy, những người đồng giới tính vẫn có thể kết hôn, tuy nhiên sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra. Đây là sự nhìn nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính của nhà nước ta trong tình hình xã hội hiện nay.

     3. Cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

     Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo: Là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con. Theo đó, điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được quy định tại Điều 95 của Luật như sau:

     - Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản.

     - Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây: Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; vợ chồng đang không có con chung; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.

     - Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây: Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ; đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ; trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng; đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.

     - Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

     - Quyền và nghĩa vụ của người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ Quy định tại Điều 97, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cụ thể :

     Có quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên mang thai hộ; phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa tre cho bên mang thai hộ. Trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày. Việc sinh con do mang thai hộ không tính vào số con theo chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.

     - Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” tại điều 98, cụ thể: Bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ chi trả các chi phí thực tế để bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ Y tế. Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.

     4.  Quyền  yêu cầu giải quyết ly hôn

     Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì chỉ có vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực từ ngày 1/1/2015 quy định: cha, mẹ, người thân thích khác cũng có thể yêu cầu giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.

     Trên đây là một số điểm mới cơ bản về Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014./.

                                                                                                           Hoàng Xuân Yến

                                                                                          Giảng viên Khoa Nhà nước & pháp luật